Thứ Hai, 4 tháng 1, 2016

PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện – Người phu chữ cần mẫn




PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện – Người phu chữ cần mẫn
Thùy Dung
Nguyễn Tự Lập gọi ông là “người Thầy có tâm, có tầm, có đức” ; Hồ Sĩ Vịnh ví ông là “người bơi giữa hai dòng chảy” ; Nguyễn Đình Lâm nhắc tới ông như “người tiếp lửa cho nghề viết”; học trò trân kính ông như cha; giới đồng nghiệp đặt cho ông cái tên rất dí dỏm- con số 7 may mắn… Ấy là nhà văn, nhà báo, PGS.TS Nguyễn Ngọc Thiện – một trong những cây bút phê bình xuất sắc trong giới phê bình văn học Việt Nam.
Người con của đất làng Nành
          Nhắc đến làng Nành (Nay là Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội) người ta nghĩ ngay đến vùng đất lắm “trai tài, gái sắc”. Bởi nơi đây chính là quê hương của nhiều vị quan tài ba, cũng là nơi được mệnh danh là “hậu cung của triều đình”, với công chúa Ngọc Hân, hoàng hậu Nguyễn Thị Huyền và vô số các cung tần mỹ nữ khác. Đó là mảnh đất thuộc xứ Đông Ngàn, Kinh Bắc- nơi dòng sông Đuống quanh năm lững lờ trôi chảy, lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống với con người thuần hậu, đơn sơ. Nguyễn Ngọc Thiện may mắn là một trong số những người con của vùng đất gìn giữ nhiều nét văn hiến ấy.
          Nguyễn Ngọc Thiện sinh năm 1947. Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu, cơ chỉ làm ăn. Ông nội ông là người tính tình khí khái, trọng chữ nghĩa. Ông ngoại ông là thầy đồ dạy chữ Nho còn bà ngoại là người con gái nết na, có nhan sắc trong làng. Hồi thiếu nữ, bà được bầu chọn là Tướng Bà trong dịp Hội Đại cuối cùng của tổng Nành (cuối XIX).

          Từ nhỏ, ông và các anh chị em đều được thầy mẹ chăm sóc, cho ăn học chu đáo. Tiếp thu truyền thống đạo học của gia đình và lời khuyên của ông cha: gìn giữ gia phong, tu nhân tích đức, lập thân tự học hành để là người có chữ, có chí… Năm 1963, chàng thanh niên Nguyễn Ngọc Thiện thi đỗ vào khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Sau bốn năm học tập, ra trường, Thiện về nhận công tác tại Viện Văn học thuộc Viện Khoa học- Xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Nguyễn Ngọc Thiện bước chân vào làng nghiên cứu từ đó.
          Kể lại khoảng thời gian mới đầu chập chững bước vào nghề, ông chia sẻ: “Khi ấy, mình là cán bộ trẻ nhất cơ quan, rụt rè, bẽn lẽn lắm. Đi theo các bậc đàn anh, trưởng thượng như Hoài Thanh, Nam Mộc, Hoàng Trinh, Vũ Đức Phúc… dự các cuộc họp, các buổi gặp gỡ; mà nhiều người cứ ngỡ mình là con, em đi tháp tùng các vị cho vui. Chứ không ai nghĩ mình lại là người trong nghề cả…”
          Chưa hết thời gian tập sự một năm, Thiện được gọi đi nghĩa vụ quân sự. Lúc đầu là lính chiến bộ binh ở Bộ Tư lệnh Thủ đô. Sau quân lực thấy anh có bằng đại học, lại vốn làm nghề với chữ nghĩa, bèn chuyển anh về Trường sỹ quan hậu cần. Tại đây, Thiện đảm nhận các công việc từ giảng viên dạy văn trong khoa Cơ bản, sỹ quan trợ lý chính trị Ban Tuyên huấn, chủ nhiệm thư viện nhà trường cho tới biên tập viên, phát thanh viên của Đài truyền thanh nhà trường… Được hơn 5 năm, sau Hiệp định Paris năm 1973, anh được chuyển ngành trở về công tác tại Viện Văn học, tiếp tục sinh hoạt chuyên môn trong Ban Lý luận rồi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Một thời gian sau đó, Thiện được điều động lên vùng biên giới phía Bắc làm cán bộ tăng cường của Đảng. Đến năm 1983, ông được cử đi du học bên Cộng hòa dân chủ Đức, tiến hành nghiên cứu và tốt nghiệp Tiến sỹ chuyên ngành lý luận văn học tại trường Đại học Karl-Marx (Leipzig). Sau 4 năm miệt mài, Nguyễn Ngọc Thiện hoàn thành xuất sắc khóa học nghiên cứu sinh. Trở về Việt Nam, ông được kết nạp là hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam và tiếp tục trở lại với lĩnh vực nghiên cứu, phê bình trong vai trò Trưởng Ban lý luận tại Viện nghiên cứu Văn học.
Cây bút trưởng thành xuất sắc của văn đàn Việt Nam
          Nguyễn Ngọc Thiện bắt đầu nghiệp “se chữ” bằng những bài tiểu luận, phê bình trên một số báo chí ở Trung ương và tham luận ở các cuộc hội thảo khoa học. Sau 50 năm cần mẫn như con tằm se kén, kéo tơ, đến nay, ông đã sở hữu một khối lượng công trình nghiên cứu không hề nhỏ. Đặc biệt, phải kể đến: Văn chương và tác giả (Tiểu luận, phê bình) 1995, Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ (Nghiên cứu và phê bình) 2000, Phong cách và đời văn (Tiểu luận, phê bình) 2005, Lý luận phê bình và đời sống văn chương (Tiểu luận phê bình) 2010, Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh (Chuyên luận) 2004, Văn chương nghệ thuật và thẩm mỹ tiếp nhận 2015. Bên cạnh đó, ông cũng là chủ biên của nhiều cuốn sách: Tuyển tập phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam 1900-1945, 5 tập; Hoài Thanh- Bình luận văn chương; Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, 2 tập; Vũ Trọng Phụng- Về tác giả tác phẩm; Lý luận phê bình Văn học Việt Nam thế kỷ XX- 13 tập… cùng nhiều tác phẩm lý luận, phê bình văn học khác…
          Nghiên cứu một hiện tượng văn học, ông luôn trung thành với nguyên tắc “Một cái nhìn mang tính biện chứng lịch sử và hướng tới sự phát triển của bản thân, luôn luôn là một yêu cầu thống nhất hữu cơ, không thể chỉ nhấn mạnh phiến diện một phía nào”.
          Theo Nguyễn Ngọc Thiện, văn học nghệ thuật là một hình thái nghệ thuật đặc thù bằng ngôn từ, chứa đựng tài năng, tâm huyết của người nghệ sĩ, được ấp ủ, thai nghén và sinh thành, tồn tại trong nhiều mối quan hệ đan cài nhau, nhằm thể hiện khát vọng của con người trong sự tìm kiếm , vươn tới và sáng tạo theo quy luật của cái đẹp, cái chân, cái thiện. Vì vậy, để phê bình được thì phải nhìn mọi thứ dựa trên tổng thể, bao quát, không thể chỉ thấy điểm mà không thấy diện; phải vừa biết kế thừa, chọn lọc, vừa nâng cao, bổ sung…
          Những bài viết của ông có sức đằm sâu, gợi ra nhiều vấn đề để suy nghĩ, bàn luận. Ông phê bình trên cơ sở hiểu sâu con người nhà văn và khảo sát tác phẩm một cách đầy đủ, có hệ thống, không bị sa vào nhận định chung chung. Ngòi bút phê bình Nguyễn Ngọc Thiện có chất văn, đặc biệt là khi phê bình tiểu thuyết, nhiều trang viết đầy cảm hứng, lôi cuốn. Ngoài việc cung cấp những tư liệu mới, Nguyễn Ngọc Thiện còn đóng góp vào đời sống văn học những kiến giải mới của mình.
“Lội ngược dòng” để đi tìm chân- thiện- mỹ
          Say mê đào sâu nghiên cứu di sản văn học dân tộc, từ đó tìm ra điểm hay, cái hợp lý để kế thừa và nâng cao. Có lẽ ai cũng thừa nhận đây là cách đi đúng hướng, có điều phải công phu, nhất là ở khâu đi tìm tài liệu gốc. Làm lý luận văn học, nghệ thuật nhất là chủ biên công trình đối với Nguyễn Ngọc Thiện không phải dùng danh xưng của mình, tập hợp một số tư liệu, bài viết, thành con số cộng hay khi có tài liệu “tam sao thất bản”, vẫn được sự hỗ trợ kinh phí nhà nước, in thành những tập sách dày cộp nhưng thiếu ý tưởng…; mà là lối bơi ngược dòng, tìm tòi, khảo sát, chỉnh lý mới tìm ra được văn bản gốc, tương đối chính xác, tổ chức thành hệ thống với cách nhìn khả biến và quan điểm biện chứng. Tiêu biểu là chuyên luận Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 – 1939-  Công trình tổng kết cuộc tranh luận văn nghệ lớn nhất và quan trọng nhất đầu thế kỷ XX, được giới khoa học đánh giá cao năng lực khái quát, phương pháp tổ chức tư liệu nhờ sự chỉ đạo của phương pháp luận mácxít
          Với Nguyễn Ngọc Thiện, chủ biên trong vai trò người chủ xướng một đề tài lớn phải thực sự là người lao động có trí tuệ năng động, có phương pháp tư duy thực chứng, lại tập hợp được đội ngũ nghiên cứu tâm huyết đáp ứng được xã hội có nhu cầu, đòi hỏi của xã hội... Điều này từ thế kỷ XVII, R. Decartes gọi là duy lý thực tiễn, tức là muốn làm một công trình khoa học, thì phải có tầm nhìn khái quát qua ba công đoạn: nhu cầu (besoin), năng lực (capacité), và hành động (action). Về mặt này ông giống như một nhà tư liệu học khả kính đáng tin cậy.
          Là học trò của cố nhà phê bình văn học Hoài Thanh, ông luôn tâm niệm “ phải tận dụng thời gian, hết lòng làm việc cho cái chuyên môn mà mình theo đuổi, để khi sức tàn lực kiệt, có thể mãn nguyện là mình đã làm được chút gì có ích cho cuộc đời chung”. Với ông, để nghiên cứu được văn chương, phải chịu khó tìm tòi, tự mình tìm đọc các văn bản, tác phẩm, đọc đi đọc lại nhiều lần, để thẩm thấu được cái hồn, cái thần của nó. Khi đọc phải tĩnh tâm, thành thực với mình, với người, an nhiên, tự tại. Bên cạnh khả năng thiên bẩm thì việc trui rèn, luyện tập cũng vô cùng quan trọng. Mình phải lao động dựa trên câu chữ của người ta, nghiên cứu kỹ lưỡng từng câu, từng dòng, từ cách diễn đạt đến tư tưởng, tình cảm của người viết… Từ đó mà tìm ra những điều sâu xa ẩn chứa mà tác giả tâm huyết gửi gắm trong câu chữ.
          Ngoài cương vị của một nhà khoa học, nhà văn, nhà phê bình văn học; PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện còn được mọi người biết đến là một nhà giáo ưu tú với kinh nghiệm giảng dạy phong phú hiếm có. Trong hơn 20 năm làm “nghề giáo” của mình ông đã giảng dạy và hướng dẫn rất nhiều nghiên cứu sinh, nhiều học viên cao học, nhiều người có học vị tiến sĩ, thạc sĩ văn chương,…  cho ra đời nhiều luận văn, luận án có giá trị nghệ thuật và chuẩn mực khoa học được đông đảo giới chuyên môn tán thưởng và công nhận.
          Không chỉ tập trung nghiên cứu, giảng dạy, ông còn cần mẫn chuyển mình cả trong lĩnh vực báo chí. Tham gia công tác báo chí từ cách đây đã 10 năm, hiện PGS.Ts Nguyễn Ngọc Thiện đang đảm nhiệm vị trí Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn  nghệ Việt Nam - một trong những tạp chí văn nghệ tổng hợp hàng đầu của giới văn nghệ cả nước. Tạp chí từ thời ông lãnh đạo đã từng bước đổi mới ngày một chuyên nghiệp về nội dung, chỉn chu về hình thức, xứng tầm một tạp chí văn nghệ đầu ngành mang tính chất mẫu mực. Về hình thức, từ mục lục đến trang bìa, từ chú thích đến tên chuyên mục được đặt đầu trang bìa được trình bày rất chuyên nghiệp và khoa học đạt chuẩn trong nước và quốc tế. Vì tổng biên tập là một nhà khoa học nên uy tín của Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam ngày càng được coi trọng. Các bài đăng trên tạp chí đều được tính điểm cộng cho các công trình khoa học…
          Nếu phải dành một từ để nói về Nguyễn Ngọc Thiện, có lẽ đó chính là “người phu chữ”, hàng ngày cần mẫn lĩnh hội, thẩm thấu, góp nhặt, chắt lọc từng chút kiến thức để rồi đúc kết chúng trong từng câu chữ một cách cô đọng và sâu sắc nhất, lưu lại giá trị mãi cho đời.6666666666666666666666666g tác phẩm, ên soạn nhiều cuốn sách: uận) t khối lượng công trình nghiên cứu không nhỏ. 6666666666666666666666666g tác phẩm, ên soạn nhiều cuốn sách: uận) t khối lượng công trình nghiên cứu không nhỏ. 6666666666666666666666666g tác phẩm, ên soạn nhiều cuốn sách: uận) t khối lượng công trình nghiên cứu không nhỏ. 6666666666666666666666666g tác phẩm, ên soạn nhiều cuốn sách: uận) t khối lượng công trình nghiên cứu không nhỏ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét