Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

Đôi sông - Tản văn của Nguyễn Hiếu





ĐÔI  SÔNG,
MỘT THỜI TA NHỚ

(Tản văn)
 Nguyễn Hiếu

         Làng tôi là một trong những làng cổ của Đại Việt. Chỉ riêng
cái tên Chèm rất nôm đã ghi nhận sự tồn tại hàng nghìn năm của căn làng nhỏ bé, xinh xinh này. Trước ngực làng có con sông Cái mùa nứơc cạn hay mùa nứơc lên khi nhạt, khi thẫm vẫn giữ nguyên một maù phù sa thao thao màu của ráng chiều ngày đẹp trời đỏ rực phía đầu nguồn. Phải chăng vì thế nên tên chữ của sông còn được gọi là Hồng Hà? Con sông mẹ mênh mông, dài rộng là thế, vậy mà cách thời ta sống đây chừng dư thế kỉ rưỡi,(?) cha ông ta lại cho đào thêm con sông nữa ở nách làng tôi.
Thoạt kì thuỷ tên con sông này lấy việc sinh ra sông mà gọi thành tên. Ấy là sông Đào. Sau này tên chữ mới là Nhuệ Giang.(?!) Thấy bảo sông Đào sinh ra để giữ mực nước sông Cái lúc cạn, lúc lũ. Người Pháp thủa cai trị xứ ta cho xây một công trình thuỷ lợi ở nơi hai dòng sông gặp nhau để làm một việc tối quan trọng giữ bình an cho làng xóm, ruộng đồng quê tôi tránh khỏi lũ khi nứơc sông lên, hạn hán khi nứơc sông cạn. Ấy là điều hoà con nứơc cho sông Đào nơi thượng lưu và sông Cái đoạn trung lưu. Người làng Chèm tôi gọi nôm công trình này là Cầu Sông. Thời ta, thấy gọi là công trình trung thuỷ nông Thuỵ Phương (ấy là tên chữ của làng tôi) gì gì ấy. (?)


        Ngẫm lại, làng Chèm tôi thật may mắn để tạo nên niềm kiêu
hãnh. Không ít làng ở xứ ta ao ứơc ngàn đời có con lạch, con sông chảy qua cho phong thuỷ vượng. Vậy mà làng tôi có tới hai dòng sông trước ngực, bên sườn ôm ấp, chở che. Các vị cao niên ở làng còn bảo: Ngay dưới bệ của Thành hoàng làng tức danh nhân Lý Ông Trọng được phong Đức Thượng Đẳng Thiên vương và phu nhân của ngài là Bạch Cung Tĩnh Vương có mạch nứơc thông liền với sông Cái. Phải chăng vì ân trạch, âm đức, sự phù hộ của nhị vị cùng vượng khí của hai con sông  nên làng tôi mới có sự phong đăng hoà cốc, ăn ở thuận hoà, ngưòi trong làng yêu thương,
vì nể nhau.,.. Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cầy vợ cấy. Hạt
lúa, củ khoai, bắp ngô của hai vụ lúa thời xưa, ba bốn vụ lúa, vụ đông thời nay cũng vì đó mà xanh tươi, chắc mẩy chăng? Cũng bởi hai dòng sông sự làm ăn của làng cũng theo đó mà phát đạt, giao thương với đủ thứ vùng trong xứ. Thời trứơc năm Ất Dậu 45, cửa hàng nứơc mắm ở Bến Ngự của bà ngoại tôi chạy dài đến chín gian nhà ngói. Một bể chứa hàng ba, bốn ngàn gánh nứơc để đón thuyền chum, thuyền vại từ xứ Thanh, Nghệ chở chượp, cái mắm nương gió nồm nam ra bán ở kinh thành Thăng Long. Gỗ lạt, tre, nứa, vầu, củ nâu, lá cọ, lá dong…toàn sản vật trênrừng, từ mạn ngược ngàn ngạt cũng theo con nứơc về đậu kín khúc sông trứơc làng tôi. Đến thời tôi cắp sách đi học, bố tôi từ chiến khu về mang theo cây ác mônica thổi vang bản nhạc Sông Lô nơi bến sông. Bố mẹ
tôi dựng nếp nhà gianh, xây tạm chiếc bể chứa nứơc ăn trên nền đất 9 gian nhà ngói đã bị Tây đốt sạch. Không có mái ngói hứng nứơc mưa, mẹ tôi gánh nứơc sông Hồng đánh phèn cho trong nước để ăn. Nhiều lần khát nứơc sau những buổi đá bóng bưởi về, tôi vục gáo múc nứơc uống cho thoả cơn khát. Phù sa đọng ngấn dưới cằm. Bố tôi nhắc khéo đau bụng. Mẹ tôi cười bảo:” nứơc sông Cái lành lắm. Bố nó khỏi lo. Con người ta sống vì đất, vì nứơc. Nay đất hoà tan trong nứơc thì còn gì bằng !…”
        Vậy mà bây giờ, mỗi lần về làng cứ thấy buồn buồn. Nhìn gảnh đình một thủa. Cái gảnh đình từng nổi tiếng đi vào lịch sử nứơc ta khi chứng kiến bẩy ngưòi con yêu quí của làng Chèm bị bắn để giữ an cho  chính quyền non trẻ thời 45. Nơi mà hồi còn nhỏ, mỗi bận giông bão sắp đến tôi chạy ào ra, ngồi ngẩn ngơ nhìn mây vần vụ trên trời, những nếp sóng đỏ rực đôi hồi, cuồn cuộn xô nhau dưới mặt nứơc. Gảnh đình giờ đây chỉ còn bờ đá đang chìm dần xuống sông. Vẫn biết chòm chèm hơn nửa thế kỉ đi qua rồi. Đứa trẻ con nghịch ngợm bạt mạng một thời luôn mở to con mắt để truy tìm sự huyền bí của những lớp sóng sông vì đâu mà cứ tháng ngày không biết mệt mỏi để chuyển hàng nghìn vạn tấn phù sa
bồi đắp đồng ruộng hai bên bờ sông, nhấn chìm tất cả mọi bọt bèo rác rưởi, thô lậu. Khi chơm chớm lớn lên, mang trong mình đủ hoài bão vào đời nay đã là ông già hói, ít nhiều nhận ra đôi chút lẽ đời để hiểu rằng: Sông Cái là sự hiển hiện của tình mẹ. Hai sương một nắng, không quản ngại đường xa mang sự no đủ, phì nhiêu cho sự sống con người. Dân đâu chỉ làng tôi mà cả rẻo đôi bờ sông lớn lên từ phù sa, bãi cát, giọt nứơc sông Mẹ, sông Đào. Hai con sông quê tôi hào phóng cho lúa, ngô, kê, đậu. Cho cá ăn, cho nứơc uống. Sông Đào, sông Cái cũng quằn mình không chỉ chở phù sa cho sự tươi tốt của ruộng,vườn mà trên lưng sông còn chở cả những con thuyền đi từ vùng naỳ qua vùng khác, giao thương, trao đổi. Cho thức ăn, cho nước uống cho hàng triêụ triệu dân.
Sông còn làm bầu vú căng tròn nơi chảy ra cuồn cuộn nguồn cảm hứng cho thi, ca, nhạc, hoạ…cho những người cầm bút, cầm đàn, cầm cây cọ có giây phút nhập đồng trong những ban mai, những chiều sương cất lên khúc hát:” Hồng Hà ơi, ta nhớ mùa thu xưa, nứơc về…”. Rồi “quê hương tôi bên dòng sông Nhuệ, nương dâu, bãi lúa…chăn tằm….”(?)
         Chao ôi, câu hát quá vãng một thời đang văng vẳng bên tai,
đang xáo trộn trong tim mà thấy lòng dạ sao chuếnh chóang với những nuối tiếc, ước ao, nhưng trách móc…Ngưòi ơi, sao nỡ ăn xổi ở thì làm hai dòng sông thân yêu cứ ngày ngày lại mọc tấy lên những vết thương trong lòng, trên bờ sông trong lòng người. Bãi dâu xanh mướt đã mãi mãi chẳng còn. Đến ngọn rau muống bè trên sông Nhuệ cũng héo xơ, vàng úa vì dòng sông trong xanh in hình cô gái hái dâu tằm nay đen kịt, bốc mùi  xú uế. Ngày ngày sông Cái vặn mình đau đớn bởi đám người vô tình, vô cảm  moi cát lòng sông. Mặt sông Cái nhăn nhúm đổi mầu, những con sóng cũng mệt nhoài vì đủ thứ nước độc, nứơc bẩn chảy vào sông khiến con cá Lăng, cá Vũ Anh tiến vua một thời cũng không sống nổi. Cá Chiên, cá Ngạnh, cá Chép… hay về đẻ trứng hũm vực bến Chèm cũng vắng bóng, thưa thớt dần…
        Cũng ít nhiều may mắn trong cuộc đời ngắn tựa bóng câu tôi đã có dịp chạm chân đến bờ dòng Von ga, dòng sông Sen, sông Hàn, sông Đa nuýp…Nghe tiếng hát “”đôi bờ” làng đãng, khúc” Đa nuýp xanh “dìu dặt vẫn bồi hồi thấy những dòng sông ấy vẫn trong xanh, đẹp đẽ như câu hát ngàn xưa của xứ người….Còn câu hát về sự tươi đẹp, an lành, phì nhiêu và cả trong xanh, thanh bình, nên thơ của sông Cái, sông Nhuệ chảy bên làng tôi lẽ nào đã trở thành tiếng hát cho những nuối tiếc, những xót xa trước hai con sông thân yêu đang trở nên tàn phế, hoang liêu…?!
        Lại một mùa xuân nữa, mùa của ước mơ, hi vọng… lại về .
        Đã quá lục thập niên trôi qua… chiều nay ngồi bần thần trên
gảnh đình làng, soi vầng trán hói già nua xuống mặt sông thân yêu, tôi chắp tay nguyện cầu:
        Hỡi con người bên đôi bờ hai con sông Đào, sông Cái! Hãy vì
hôm nay và mai sau trả lại bình yên, thanh  thản, trong xanh cho hai
con sông để đôi dòng mãi mãi cho ta sự sinh sôi và khát vọng…Mong đến cháy lòng….

2 nhận xét:

  1. Người ta vẫn viết hay hơn Nhí Nhố.........

    Trả lờiXóa
  2. Người ta là nhà văn rồi. Nhí Nhố thì chưa. Nhưng đừng tự ti thế. Mỗi người hay mỗi kiểu. Chả ai lấn ai đâu!

    Trả lờiXóa