Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2019

LINH KHUYỂN CŨNG KHÓC



                                     


 LINH KHUYỂN CŨNG KHÓC

                                                                 Lương Hiểu Thanh

                                                                Vũ Công Hoan dịch

          Mùa đông năm 1972, sáu thanh niên trí thức đại đội chúng tôi canh giữ một bốt gác bên sông Usuli.
         
          Cứ cách nửa tháng đại đội lại đưa bột mì và rau xanh cho chúng tôi một lần. Mùa đông ở vùng hoang vu mênh mông phía bắc chỉ được ăn ba thứ lặp đi lặp lại cải trắng, lú bú và khoai tây, rất hiếm được ăn thịt. Chúng tôi bắt đầu bẫy thỏ rừng.
         
          Thỏ rừng sập bẫy bị chó tha mất. Dấu vết để lại trên đồng tuyết rõ mồn một cho chúng tôi biết con chó đã chạy qua mặt sông. Sau con đê đất là một xóm bản, có thể nhìn rõ mái nhà với các dạng các kiểu. Vùng này mặt sông không rộng. Sáng sớm thậm chí có thể nghe được tiếng gà gáy của xóm bản.Khỏi cần nghi ngờ, con chó trộm cắp chắc hẳn là của dân Liên Xô.
         
          Một buổi chiều tối, chúng tôi nghe thấy tiếng chó sủa, lần theo tiếng chó sủa chúng tôi chạy vào một bụi rậm. Một con chó đã mắc bẫy chúng tôi cài. Con chó lưng dài, chân dài, tai rủ, lông hạt dẻ màu sẫm, bóng mượt, mặt chó linh tú rất đáng yêu, là con chó săn Liên xô thuần chủng xinh đẹp. Chiếc thòng lọng dây thép thít chặt háng sau nó. Sau một hồi dẫy dụa quyết liệt,chiếc thòng lọng xiết chặt hơn, hằn sâu vào da thịt. Trong ánh mắt đau đớn của nó toát lên nỗi bi ai và tuyệt vọng. Nó sợ hãi nhìn chúng tôi.Nó cứ há mồm nhe răng rên nhè nhẹ.Nó đang đau đớn cực độ, chẳng mấy chốc nó nằm co ro bất động trong hố tuyết.
         
          Một anh bạn đá nó một phát, hậm hực nói:
          - Bọn mình về thôi, cứ mặc xác nó ở đây chịu tội. Nó không bị thít chết,thì cũng chết cóng, hoặc đêm đến bị sói ăn thịt.
          Anh bạn khác phản đối:
          - Để sói ăn thịt không khỏi đáng tiếc. Đem nó về bốt làm thịt đủ cánh ta  ăn vài hôm.
          Anh bạn thứ ba tán thành ngay:
          - Đúng. Mình lấy bộ da, gửi về Thượng Hải để bố làm đệm vai áo da. Đệm vai bằng da chó săn Liên Xô thuần chủng.

                                                                 Nhà văn Vũ Công Hoan

         
          Trời đã tối con chó ở ngoài bốt, có lẽ sắp bị thít chết, có lẽ sắp chết cóng. Có lẽ nó dự cảm không thể thoát thân đã kêu một tiếng ai oán, hình như để chờ đợi cái chết.
          Nước đã sôi, dao đã mài, anh bạn dơ ngón tay thử lưỡi dao có vẻ hài lòng.
          Đột nhiên chúng tôi nghe bờ sông bên kia có tiếng người gọi. Đầu tiên là tiếng gọi khẳn đặc của một ông già, sau đó là tiếng gọi khẩn thiết của một bà cụ:
          -  “Nacha...”
         
          Trong đêm yên tĩnh đen ngòm, tiếng gọi bên kia sông vọng sang nghe vô cùng tha thiết. Chúng tôi hỏi tiểu đội trưởng từng được học tiếng Nga ở lớp bồi dưỡng của trung đòan bộ họ gọi gì thế? Anh trả lời:
-         Na cha là tên con gái Liên Xô. Họ đang gọi con.
-         Họ gọi con có liên quan gì với mình đâu.
           Anh bạn mài dao lắc đầu với tôi. Tôi đi ra ngoài, đang định lôi con chó nửa sống nửa chết vào bốt, thì con chó đột nhiên sủa ăng ẳng. Tôi chưa bao giờ nghe thấy một con chó kêu ai oán như thế.Nó y hệt tiếng kêu trả lời của một con người đang lâm vào cảnh tuyệt vọng.
         
          Tiếng gọi của ông bà già Liên Xô mỗi lúc một gần. Rõ ràng hai ông bà gọi theo tiếng chó sủa, dọc theo bờ đê bên kia sông, cả hai người vừa tiếp tục gọi vừa chạy đến Giữa chúng tôi và hai ông bà chỉ cách con sông Usuli, tiếng người gọi và tiếng đáp lại của con chó đã rung động bầu trời đêm to rộng gấp hàng mấy lần,mười mấy lần, mấy chục lần mặt sông đóng băng. Mấy anh em chúng tôi đều đứng lặng người nghe không nhúc nhích.
         
          Một đêm tối cực kỳ giá lạnh. Tiếng người gọi và tiếng đáp lại của con chó với một sức mạnh xuyên thấu màn đêm tối om bao phủ mặt sông băng giá, thậm chí tất cả  cảnh vật trong tự nhiên, đã làm rung động trái tim chúng tôi.  Tuy không nhìn thấy hai ông bà già Liên Xô đứng trên đê trước mặt. Nhưng chúng tôi tin chắc hai ông bà đang gọi con chó này.
         
          Anh bạn cầm con dao vứt mạnh xuống đất, đi vào giường mình, ngả lưng nằm xuống.
-         Mình tuyên bố mình không cần bộ lông chó...
Anh bạn đến từ đại Thượng Hải lẩm bẩm nói một mình.
         
          Tiểu đội trưởng rút dao, nhìn con chó.Một khi bị lôi vào bót gác, nó không sủa nữa. Nó cũng nhìn tiểu đội trưởng, khóe mắt rưng rưng, phải, nó khóc trong im lặng. Lần đầu tiên trong đời, chính mắt tôi nhìn thấy con chó đang thầm khóc như thế nào.
Tiểu đội trưởng cúi xuống chặt đứt sợi dây thép thòng lọng. Con chó từ từ đứng lên. Nó nhìn chúng tôi có vẻ nghi nghi hoặc hoặc. Ý thức cảnh giác khiến nó không dám rời chỗ. Vết thương nó rất nặng, háng chân sau rụng lông toạc da, máu và thịt nhày nhụa .
          Tiểu đội trưởng khẽ nói:
-         Hộp thuốc!
Tôi lập tức xách hộp thuốc đến.
          Tôi dội đầy thuốc tím lên vết thương của nó, rắc bột tiêu viêm, rồi cẩn thận cuốn mấy vòng vải xô băng bó vết thương cho nó.
         
          Tiểu đội trưởng vết trên mảnh giấy mấy dòng tiếng Nga. Viết xong anh đọc cho chúng tôi nghe: “Chúng tôi không có ý định hại con chó của ông bà. Hy vọng nó sẽ không bao giờ sang bờ sông bên này”.

          Tôi bỏ ra một phòng bì giấy xi măng, tiểu đội trưởng sai con chó ngậm chặt “bức thư quốc tế”, đẩy cửa bốt gác. Con chó từ từ đi ra, mất hút trong màn đêm...

Từ đó trở đi thỏ rừng chúng tôi bẫy được cũng không bao giờ bị mất.


                                              Vũ Công Hoan dịch ngày 29 tháng 12 năm 2012.
                                             
                                               (Theo Tiểu tiểu thuyết Trung Quốc năm 2010)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét