Thứ Hai, 14 tháng 1, 2019

KHÚC TÌNH CA DÂNG MẸ




CHẤP CHỚI SÔNG LAM                                                                                        

Lời thơ: NGUYỄN LÊ TRUNG
- Phổ nhạc: Minh Quang
Thể hiện:  Phương Thảo, Lê Trung, Anh Thơ,…

Tiếc gì một miếng trầu cay,
không mua cho mẹ?
để mẹ lắc (lắt) lay… cõi lòng!...
 
1. Hai triền sông Lam… mòn vẹt! 
Hai triền sông Lam… gió…!
Một chuyến đò nan
chênh chênh 
đẩy đưa thân mẹ,
(lênh đênh) 
tóc xanh tận bạc mái đầu… 

Một đời (mẹ) lận đận,
lận đận nuôi con 
Một đời
đồng sâu,
sương muối… 

À ơi!…  ơ à ơi!...
cay đắng lá trầu! 
À ơi! mẹ hát…
riêng mình mẹ đau… 
Lòng người,
ai thấu nông sâu?!… 

          ĐK:

Chấp chới!... chấp chới!...
về nơi cõi Hiền! 
Chấp chới!... chấp chới!...
về nơi cõi Thiền!
Mẹ ơi!...
sao không thương mình? 
Lớn khôn tìm mẹ,…
Mẹ còn nữa… đâu!?
                       ***
2. Hai triền sông Lam… bồi lở!
Hai triền sông Lam… nhớ
Một cánh cò bay
chênh chênh, 
cõng bao duyên nợ 
phu thê
nặng đạo… Tam tòng! 
một đời (mẹ) lặn lội,
lặn lội mom sông, 
ngậm bồ hòn
nuôi con lớn…
  À ơi…, ơ à ơi!
cay đắng lá trầu, 
À ơi! miệng tiếng Tam tòng
quặn đau! 
Bồ hòn ngọt chát
thay cau

            ĐK:

Chấp chới!..., chấp chới!…
về nơi cõi Hiền! 
Chấp chới!..., chấp chới!…,
về nơi cõi Thiền! 
Mẹ ơi!
sao không thương mình? 
Lớn khôn tìm mẹ,
Mẹ còn nữa… đâu! 
Mẹ ơi!…
sao không thương mình? 
Lớn khôn tìm mẹ,…
mẹ về… nơi… đâu!?

                                                                                             Chép, 5/5/2017.

KHÚC TÌNH CA DÂNG MẸ

(Bình ca khúc phổ thơ “Chấp chới sông Lam”
của Nguyễn Lê Trung – Minh Quang)
ĐƯỜNG VĂN

Kính dâng hương hồn Mẹ!
Tặng tác giả thơ Nguyễn lê Trung và nhạc sĩ Minh Quang,
Tặng ông thông gia Nguyễn Văn Sâm
và những người bạn thân của tôi!


            Việt Nam ta, trong khoảng vài ba năm lại nay, từng xuất hiện và phổ biến trên các phương tiện truyền thông đại chúng và trên các trang mạng, trong phạm vi nghe, biết của riêng tôi, thấy có 2 bài thơ – ca về Mẹ rất xúc động, chân thành và hay…! Tại đây, thơ - nhạc song hành, hòa quyện, nâng nổi lẫn nhau. Lời ca vấn vít giai điệu ảnh hưởng dân ca Nghệ Tĩnh, chắp cánh cho nhau, giúp người đọc, người nghe cùng bồng phiêu cảm xúc, thăng hoa tâm tưởng kính yêu và biết ơn lắng sâu vô cùng về Mẹ.
            Đó là bài Mẹ tôi của Trần Tiến; Trần Thu Hà, Tùng Dương… từng hát. Và gần đây là Chấp chới sông Lam: Thơ Nguyễn Lê Trung, Nhạc: Minh Quang; Phương Thảo, Anh Thơ, Lê Trung… thể hiện. Tất nhiên, mỗi bài hay mỗi vẻ, với hai phong cách âm nhạc khác nhau. Nhưng cả hai ca khúc trữ tình đều sâu đậm dư âm hồi cố, nghiệm suy, da diết, khắc khoải, đắng xót, nuối tiếc và ăm ắp hoài niệm, nỗi niềm của những đứa con mẹ rứt ruột đẻ ra, nay cũng đã bước vào tuổi già; song vẫn thủy chung như nhất tấm lòng yêu thương, biết ơn thành kính, chiêm bái hướng lên đấng từ mẫu sinh thành; Người, giờ đây, đã được thảnh thơi ngồi trên áng mây vàng, đang thích thảng ngao du trong mênh mang thế giới người Hiền, nơi cõi Thiền - Cực lạc…
                                                                 ***

                                    Đường Văn

 
            Khoảng cuối mùa xuân năm ngoái, mỗi khi ngồi vò võ một mình trong những đêm đại tang âm u, vắng rợn, lặng nghe Tùng Dương thổn thức ca bài Mẹ tôi trên nền nhạc ghita gỗ đệm, bên ngọn nến leo lét tỏ mờ, trong tiếng băng kinh niệm đều đều, văng vẳng bên tai: Nam mô A di đà Phật, lòng đứa con trưởng nam tôi rưng rưng nỗi cô lẻ, ngậm ngùi, cứ muốn rời thoát cái cõi dương bụi bặm này, bay theo Mẹ tôi ngay, chẳng hề bợn, gợn một mảy vấn vương, nuối tiếc!…
            Lại đến những sáng cuối xuân, đầu hạ mệt mỏi năm nay, được ông bạn thông gia quê xứ Nghệ mách, rủ cùng nghe lại ca khúc Chấp chới sông Lam của một tác giả thơ không chuyên đồng hương với ổng do nhạc sỹ quân đội Minh Quang phổ nhạc, qua giọng hát cao vút, trong sáng và trữ tình dòng dân ca: Phương Thảo, mới được phát trong buổi truyền hình VTV1, giới thiệu tác phẩm mới, tuần cuối tháng 4/ 2017. Ông thông gia ngồi lặng lẽ, Ipat đặt nghiêng trên bàn, đăm đăm nhìn xa xăm, mắt ầng ậng giọt sương tuổi U80* tưởng nhớ cụ thân mẫu của mình đã khuất núi từ lâu…
            Còn tôi?...Tôi vừa thong thả lắng nghe từng câu hát buồn vừa tự đưa lòng mình trở về với tâm trạng thảng thốt, hụt hẫng, mất mát, chênh vênh, khổ sở hồi cuối tháng ba năm 2016 (Bính Thân), những ngày mẹ tôi mới đột ngột rời bỏ anh em chúng tôi, rời bỏ làng Trèm – Thụy Phương để về với tổ tiên họ Lê, họ Nguyễn. Giọng nữ cao ca sĩ trong vắt, thánh thót, bất chợt vút lên đoạn cao trào như những tiếng nấc nghẹn, đứt quãng, dằn mạnh, xót xa, hờn tủi, tiếc thương, ân hận của tấm lòng con muốn gào thét cùng đất trời, mây gió:
Chấp chới…! Chấp chới!... về nơi cõi Hiền!
    Chấp chới!... Chấp chới!... về nơi cõi Thiền!...
Mẹ ơi!...
            Câu hát – như lời than, như tiếng gọi khơi vơi, chênh chao, chênh chao, chợt ngừng chợt nối, gợi những hình ảnh bảng lảng, não nùng thực hư, ảo huyền, như có, như không… vong linh, hương hồn Mẹ đang mải miết vân du, thênh thênh chơi khắp cõi không màu cùng thế giới các đấng - bậc Tiên Hiền…

            Nhưng sao lại chấp chới?
            Đó là một tính từ miêu tả tư thế, trạng thái của sự vật hoặc hiện tượng nào đó đang chuyển động, lay động, chênh vênh, chưa cố định, ổn định, chưa vững bền. Đó cũng là từ láy tượng hình. Nó được sử dụng làm nhan đề cho bài thơ - bài ca, theo tôi là cực kỳ ám ảnh, ấn tượng và đa nghĩa, tổng hòa của những:
            Chấp chới hồn linh, chấp chới bóng ảnh mẹ hiền, chấp chới dòng sông Lam quê hương thao thiết tiễn Hồn linh Mẹ bay đi, chấp chới tấm lòng cháu con cồn cào, nôn nao thương nhớ mẹ, nhớ bà, nhớ cụ…, mong một lần nữa được gặp lại mà chỉ còn biết cầu trời, khấn Phật tụng niệm: Nam mô Bồ tát cứu khổ, Phật Tổ phù hộ chúng sinh…
            Bởi thế, từ láy chấp chới trong văn cảnh này, tỏ ra rất đắc dụng, mới lạ, và hết sức linh động. Nó còn muốn chứng tỏ sức sống, tình yêu cuộc sống, con người nơi dương thế mà mẹ vừa phải chia ly vĩnh viễn, nhưng vẫn luyến lưu, bịn rịn chưa thể nào nguôi ngoai… hòa với tâm trạng con cháu khao khát muốn níu kéo, trì giữ một lần nữa hình bóng mẹ già, mà từ nay đã thoắt trở thành âm dương ngàn trùng cách biệt…
            Nếu hồi nao, dòng sông Mã chảy qua xứ Thanh “gầm lên khúc độc hành” – bản bi hùng ca tiễn người lính Tây Tiến về đất Mẹ (Quang Dũng), thì giờ đây, dòng Lam giang xứ Nghệ chấp chới, chấp chới những khúc trữ tình lả mềm, đò đưa, đắng xót, nâng, đẩy con đò Mẹ chênh chênh vươn tới những Đài Sen – lung linh, nhập cõi Như Lai, Thiên Đường.

            Hai câu cuối:            Mẹ ơi!... sao không thương mình?
Lớn khôn tìm mẹ,… Mẹ còn nữa đâu?!
            vang lên nhỏ nhẹ, chậm dần, như tiếng thầm thì gọi mẹ, trách mẹ, nũng nịu cùng mẹ, như thuở con còn bé dại. Giản dị, sâu lắng, tâm con vẫn băn khoăn hoài, không yên; bởi tự giận mình, tự trách mình đã từng không biết thương mẹ, không biết hưởng hạnh phúc những năm tháng may mắn ngắn ngủi được sống bên mẹ… Để đến khi khôn lớn, hiểu biết, muốn tìm mẹ phụng dưỡng, báo hiếu, thì… hỡi ôi! … đã quá đỗi muộn màng!…
                                                   Mẹ còn nữa đâu?!...
            Nhạc sỹ Minh Quang từng chia sẻ với tác giả bài thơ Chấp chới sông Lam cùng đông đảo khán - thính giả truyền hình, trong chương trình VTV1 giới thiệu Tác phẩm mới tháng 4/2015, rằng tứ nhạc đầu tiên mà thành chủ âm làm nên linh hồn, câu kết bài hát tương lai, đã lập tức nảy sinh trong đầu ông như 1 tia chớp xoẹt, khi vừa đọc hai câu thơ ấy trên tờ giấy chép bài thơ, đặt trên linh sàng bà mẹ anh bạn Nguyễn Lê Trung.
            Về hình thức chữ nghĩa, tôi cho rằng, đó là hai câu tựa như lời nói thông thường, chẳng có gì là thơ, không hề có hình ảnh tu từ, trau chuốt… Vậy mà thẫm đẫm, tràn ngập ý thơ, chất thơ, tình thơ. Chất thơ ấy mộc mạc, thăm thẳm, gắt đậm vị đời, thiêng liêng tình mẫu tử, máu thịt, ruột già.
            Trong cảm nhận của tôi, đó chính là 2 câu hay nhất của bài thơ khóc mẹ, đóng vai trò hai câu kết mở xứng đáng của ca khúc phổ thơ... Nhưng thực ra, cái tự mặc cảm muộn màng như là có tội này không phải là mặc cảm tâm lý quá cá biệt, hiếm hoi trong đời sống cũng như thơ ca. Chẳng hạn, mặc cảm:
            Bếp lửa khói hun nhèm mắt cháu/Nhớ lại đến giờ sống mũi còn cay! (Bếp lửa (1963) – Bằng Việt.
            Hoặc: Khi tôi biết thương thì đã muộn/ Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi! (Đò Lèn (1983) – Nguyễn Duy...  
            Mới hay, đúng như lời một nhà thơ lớn đã có lần cùng ta chiêm nghiệm những câu chuyện tâm tình về thơ. Đại ý:            
            Đọc câu thơ hay khiến chúng ta dường như quên hết câu chữ, không còn nhớ đó là tiếng nói của ai; chỉ còn lại tình đời, tình người. Quên rằng đó là tiếng nói của ai, mà như là tiếng ca vang lên từ chính lòng mình, từ trái tim mình vậy.*

            Nhưng cũng từ cái ẩn ý ân hận, xót xa, mặc cảm có lỗi của đứa con nghĩ mình chưa làm tròn bổn phận với mẹ ấy rồi bắt sang duyên cớ để đưa vào 3 câu mở đầu bài thơ, mà thoạt đọc, tôi cứ tưởng như có cái gì đó sai nhịp, lạc ý:
                                                       Tiếc gì một miếng trầu cay,
không mua cho mẹ,
để mẹ lắc (lắt) lay cõi lòng!?
            Lạ! Vì sao đứa con hiếu thảo lại có thể, có lúc nỡ cư xử với mẹ đẻ của mình như thế?! Và hơn thế, trong bài thơ, hình ảnh miếng trầu, lá trầu không quen thuộc, dân dã này sẽ còn trở đi trở lại 2 lần nữa, ở đoạn giữa: trong tiếng ru à ơi, cay đắng lá trầu, nhằm ôn lại một khúc tình duyên đắng cay, hẩm hiu, vì đời mẹ đã phải cắn răng, nhắm mắt đưa chân tuân theo cho trọn đạo Tam tòng khắc nghiệt; Và nhất là hình ảnh quá đỗi ngậm ngùi, đắng - ngọt - chát ngậm bồ hòn thay cau…! (từ câu thành ngữ: Ngậm bồ hòn làm ngọt), đều chắt lọc từ một thi ảnh trong ca dao trữ tình truyền thống để tượng hình, khái quát nỗi bất hạnh, uẩn khúc cố giấu đi của những người con hiếu, khi có dịp cần phải kể về cuộc đời của mẹ mình công khai trước bàn dân thiên hạ, vẫn cố gắng gỏi làm theo quan niệm cầu toàn của người Việt chúng ta: Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại; Hay gì vạch áo cho người xem lưng! (Tục ngữ)

            Nếu hình ảnh chấp chới sông Lam thiên về hư ảo, phi thực thì hình ảnh:
            Hai triền sông Lam… gió; nhất là hai triền sông Lam … mòn vẹt, phải chăng lại tựa hồ chỉ tả thực trần trụi, đã vẽ đậm nét màu sắc, tính chất điạ mạo kỳ lạ của thiên nhiên dòng chảy qua đoạn sông miền Trung này. Cả đôi bờ, theo thời gian, cùng bị mòn vẹt, (chứ không phải theo quy luật phổ biến: bên lở, bên bồi, bên trong, bên đục…). Vì cùng bị xói lở, nên phù sa từ thượng nguồn chảy về mới bồi tụcánh bãi giữa dòng, làm thành một dải đất mom sông phì nhiêu, màu mỡ, để mẹ lặn lội thân cò, tần tảo nuôi chồng, chăm con… cũng y như hình tượng bà vợ cụ Trần Tế Xương thành Nam Định. Phải chăng chỉ như thế hay hình ảnh thiên nhiên này ít nhiều còn mang ý nghĩa biểu trưng - ẩn dụ cho cuộc đời và số phận lận đận  nổi chìm của bà mẹ nghèo bên bờ sông Lam? Mỗi lần nghe hát đến câu này là trong tôi lại cứ vẩn vơ vấn vương thêm cái điều băn khoăn chưa được tường giải ấy? Hi vọng một lần kì ngộ nào đó trong tương lai, tôi sẽ thử hỏi người thơ xem sao?

            Từ láy đắt giá thứ hai được vận dụng trong bài thơ cũng là 1 tính từ tượng hình - từ láy đôi phụ âm đầu “ch”: chênh chênh.
            So với “chấp chới”, thì “chênh chênh” dường như có vẻ hiền hơn, tĩnh và cũng mong manh hơn, cơ hồ dễ xiêu, dễ đổ, dễ ngã hơn. Chênh chênh gắn với con đò nan đang sang sông, gắn với cánh cò đang bay trong gió cả chiều tàn, gắn với hình dáng thon thả, mảnh mai, gầy yếu của Mẹ…
            Chênh chênhhình ảnh ẩn dụ tượng trưng quen thuộc cho cuộc đời – số phận đầy bất trắc của người mẹ miền Trung xứ Nghệ nghèo cực, lam lũ, lận đận, tảo tần, oan khổ, từ buổi thiếu thời cho tới khi lấy chồng, sinh con… rồi buộc phải dứt áo ra đi, trong oan khuất, phân ly, tủi nhục,… Mẹ chỉ còn để lại trên 2 triền sông Lam mòn vẹt chút bóng ảnh chấp chới trên cánh cò, trên lá buồm phồng căng nương gió chênh chênh, trong tiếng ru à ơi não nùng, văng vẳng đâu đây của mẹ và tiếng khóc mẹ ơi!… còn đâu?! tức tưởi  của đàn con côi cút, kéo lê thê mãi tới khi tuổi chúng cũng… đã già rồi!
                                      Vẫn ngồi nhớ mẹ, khóc như trẻ con!
                                                                                                            (Trần Tiến)
                                                              ***
            Bài thơ của Nguyễn Lê Trung – khúc hoài ca tình mẹ của Minh Quang, qua tiếng hát Anh Thơ – Phương Thảo - Lê Trung… mỗi lần thưởng thức, sao cứ xót xa, đau buốt như lưỡi dao sắc cứa vào trái tim người nghe, người đọc, nhất là những người quê xứ Nghệ, gốc Nghệ… như ông bạn già thông gia của tôi?!
             Hẳn không chỉ vì cái giọng điệu dân ca đặc biệt mộc mạc miền quê Nghệ Tĩnh; không chỉ vì cách tạo nhịp thơ, ngắt, liền tự do, phóng túng theo nhịp cảm xúc, khi làm lời khóc mẹ của người thơ; cũng không chỉ vì chút liên tưởng tình đồng hương, đồng khói… nên dễ lây lan, đồng cảm, đồng điệu…; mà chủ yếu vì cái mẫu số chung tiềm ẩn tự ngàn đời, muôn đời, trong tâm khảm mỗi tâm hồn chúng ta - những đứa con trai, con gái của Mẹ, càng về già, càng có tuổi, càng trải nghiệm sự đời, tình đời, càng thêm trĩu nặng tấm lòng nhớ thương, kính yêu, tưởng vọng, biết ơn và tự hào, kiêu hãnh về những người MẸ HIỀN – TỪ MẪU… của mình.
            Phải chăng đó mới chính là một trong những lý do phổ quát, cơ bản nhất, lý do tạo nên cái hay, sự hấp dẫn, truyền lan, cộng cảm tất yếu mà tự nhiên, hồn nhiên toát lên từ những sáng tạo văn chương nghệ thuật đích thực như ca khúc Mẹ tôi hay Sông Lam chấp chới!? - những bài tụng ca hiện đại Việt Nam về BÀ MẸ VIỆT NAM./.

Nông Lâm – Trèm, Bắc Từ Liêm, Hà Nội
-          chiều 8/5/, chỉnh sửa 12/5/2017. ĐV

  • U 80: khoảng tuổi từ 71- 80. ( Tiếng Anh viết tắt);
  • Tố Hữu: Câu chuyện về thơ (1963); trong sách: Xây dựng một nền văn nghệ nhân dân…
                      NXB Văn học, 1978).
  • Đã đăng trên vunho.com; nguyennguyenbay.com, ngày 8-10/5/2017.

                                                                    PS.

           Sau khi đăng bài bình Chấp chới sông Lam trên các blog trannhuong.com.vunho.com, nguyenguyenbay.com được ít lâu, tôi bồng nhận được 1 cú điện thoại từ Thành phố HCM của một bạn đọc xưng tên là Nguyên Hùng. Anh Hùng chia sẻ sự đồng cảm, xúc động của mình về bài viết của tôi mà anh đã đọc qua trang blog trannhuong,com. Anh nói đã thông báo đến anh Nguyễn Lê Trung – tác giả bài thơ, cũng là bạn anh để anh Trung tìm đọc và hẹn sẽ có một dịp nào đó, các anh sẽ tới thăm tôi để trò chuyện thêm về bài thơ - bài hát. Tôi ngạc nhiên và vui vẻ nhận lời...
          Nhưng rồi thời gian cứ trôi, hết năm 2017, hết năm 2018 (Dương lịch), cuộc hội ngộ lý thú ấy vẫn chưa thành hiện thực. Mãi đến buổi trưa cuối đông Mậu Tuất (7/1/2019), tôi lại tình cờ nhận được cuộc gọi từ chính anh Nguyễn Lê Trung hẹn sẽ tới thăm nhà tôi ngay buổi chiều hôm ấy. Thật đột ngột và vui mừng! Và cuộc gặp mặt kỳ ngộ của mấy anh em chúng tôi (có cả ông thông gia Văn Sâm và mấy cháu thanh niên, trợ lý của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Lê Trung, cùng dự) đã diễn ra thật hoan hỉ, hào hứng. Chúng tôi nâng li chúc mừng năm mới 2019 vừa được 1 tuần, chúc hương hồn các Bà Mẹ của chúng ta được thích thảng Hạc giá Tiên du, chúc cuộc cuộc hạnh ngộ hữu duyên này sẽ góp phần làm cho mối quan hệ giữa người viết thơ và người bình thơ, người hát và người nghe (đều là những đứa con trai của các bà Mẹ Hiền) càng thêm chặt bền, thắm thiết. Tôi lại được đệm đàn ghita để anh Lê Trung – một ca sĩ nghiệp dư có hạng- tự trình bày một cách diệu nghệ bằng giọng nam cao cực kỳ truyền cảm ca khúc phổ thơ của mình, dưới bóng lá hồng xiêm đang xạc xào reo, chờ xuân Kỉ Hợi. Anh Trung cảm ơn tôi đã thấu cảm bài Chấp chới sông Lam thật sâu sắc, tinh tế. Dù chưa biết, chưa gặp tác giả một lần, mới chỉ qua văn bản chữ nghĩa mà ĐV đã nói được những tâm tư sâu kín của Mẹ anh, những tâm tình, xúc động của anh với mẹ thật thấm thía. Cứ như là những phát hiện mới mẻ vào cõi huyền vi, sâu thẳm và thiêng liêng của tình người, tình Mẫu Tử. Tôi cảm ơn anh quá khen. Thật ra, tôi chỉ viết ra tất cả những gì tôi cảm, tôi hiểu và tôi nghiệm suy từ văn bản bài thơ bằng những trải nghiệm của chính mình. Và khi chúng tôi nghe chính anh và các nữ ca sĩ thể hiện ca từ trong giai điệu Chấp chới sông Lam mà thôi! Anh Trung tặng tôi đĩa CD mới thu bài Chấp chới sông Lam và một số ca khúc khác trong đó có bài Sông Lô, chiều cuối năm nổi tiếng của Minh Quang, đều do Lê Trung thể hiện. Tôi và ông thông gia lại hỏi thêm anh một vài điều về Bà mẹ anh, về đôi bờ sông Lam mòn vẹt, về con đường từ một cậu bé xứ Nghệ nghèo trở thành một vị Thứ trưởng – Bí thư Đảng ủy một bộ quan trọng của Chính phủ. Anh Trung vui vẻ và cởi mở  trả lời một cách giản dị, khiêm nhường... Chiều rét cuối năm qua nhanh... Chúng tôi hẹn nhau,  sẽ mời nhạc sĩ Minh Quang, cho cuộc gặp tới càng thêm ý vị.

           Tôi viết thêm mấy dòng này để ghi lại một kỉ niệm mới mẻ và ấm cúng mà Tình Mẹ qua Thơ – Nhạc đã trở thành những sợi dây, những nhịp cầu kết nối và gắn bó những trái tim - những tâm hồn./.
                                                                                  
                                                                                 Trèm, chủ nhật, 13/1/2019. ĐV


                                                        ------------------------------












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét