NÓI THÊM VỀ CUỐN "THI PHÁP THƠ TỐ HỮU"...

LÃ NGUYÊN
ĐÔI ĐIỀU NÓI THÊM VỀ "THI PHÁP THƠ TỐ HỮU"
CỦA TRẦN ĐÌNH SỬ
NHÂN CUỐN SÁCH ĐƯỢC NHÀ XUẤT BẢN SƯ PHẠM TÁI BẢN LẦN THỨ SÁU
Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử in lần đầu vào năm 1987. Năm 1989, tôi đã viết bài bình luận về cuốn sách đăng trên Tạp chí văn học (số 3, tháng 5+6). Ngoảnh đi ngoảnh lại, đã ba mươi sáu năm trôi qua. Giờ đây nhìn lại, tôi muốn nói thêm đôi điều về công trình nghiên cứu này.
Tôi nghĩ, trong sự nghiệp khoa học của Trần Đình Sử, cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu là công trình có một ý nghĩa biệt. Đặc biệt, vì với riêng ông, đó là đứa con tinh thần đầu tiên mà ông đã dồn rất nhiều tâm huyết và công sức cho sự sinh hạ của nó. Với độc giả, nó đặc biệt, vì như tôi nghĩ, đây là công trình “nói” bằng nhiều “ngôn ngữ”, tạo ra nhiều tầng nghĩa, thực hiện nhiều chức năng khoa học khác nhau. Trước hết, nó là công trình nghiên cứu thi pháp tác giả. Ở đây, Trần Đình Sử có hai phát hiện lớn, với ý nghĩa bao trùm, mang tính đột phá. Thứ nhất, thơ Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị Việt Nam. Thực chất, nó là thơ ca tuyên truyền. Nhờ phát hiện này của ông, lần đầu tiên, sáng tác của Tố Hữu được “gọi tên” chính xác, khác với những cách gọi phổ biến trong nghiên cứu, phê bình văn học ngày ấy, ví “thơ cách mạng”, “thơ yêu nước”, “thơ thời sự cách mạng”… Thứ hai, về mặt chất thơ và phương thức biểu hiện, lần đầu tiên, thơ Tố Hữu được xác định là thơ trữ tình điệu nói.
Nhưng Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử còn là công trình thi pháp học lịch sử. Bởi Trần Đình Sử không chỉ phân tích, diễn giải thơ Tố Hữu, mà còn so sánh, đối chiếu sáng tác của nhà thơ với nhiều tượng đài văn học ở cả trục đồng đại, lẫn trục lịch đại để khảo sát nó như một loại hình văn hóa - lịch sử. Chẳng hạn,theo ông, ở chiều lịch đại, thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu là sự tiếp nối, phát triển tới đỉnh cao của thơ ca yêu nước cách mạng Việt Nam đầu thế kỉ XX. Ở chiều đồng đại, nó gắn với loại thơ từng tạo thành dòng chủ lưu ở nửa đầu thế kỉ XX với những tên tuổi lẫy lừng như V. Mayacopski (Nga), Luis Aragon, Paul Eluard (Pháp), Bertolt Brecht (Đức), Pablo Neruda (Chile), Nâzim Hikmet (Thổ Nhĩ Kì), Vítězslav Nezval (Séc), Nicola Vapzarov (Bungaria), Jorge Guillén (Tây Ban Nha)… Cũng như vậy, ở trục đồng đại, xét từ phương thức biểu hiện, thơ trữ tình điệu nói của Tố Hữu cùng chung một loaị hình với “Thơ mới” Việt Nam và thơ của chủ nghĩa lãng mạn nói chung. Xét theo trục lịch đại, nó thuộc loại hình thơ hiện đại, khác với thơ “điệu ngâm” thời trung đại và “điệu ca” trong sáng tác dân gian. Việc tiếp cận thơ Tố Hữu từ quan điểm loại hình văn hóa – lịch sử như thế khiến chuyên luận của Trần Đình Sử khác hẳn những tiểu luận phê bình, giới thiệu của Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đăng Mạnh, hay các công trình nghiên cứu công phu của nhiều tác giả, ví như Thơ Tố Hữu (1979) của Lê Đình Kỵ, hay Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí (1980, 1885) của Nguyễn Văn Hạnh.
Để nghiên cứu thơ Tố Hữu, từ góc độ thi pháp học, như một hiện tượng văn hóa – lịch sử, Trần Đình Sử phải xây dựng một hệ thống lí thuyết rất mới mà tôi có thể mô tả theo một số điểm chính yếu sau đây:
Thứ nhất, trong Thi pháp thơ Tố Hữu, lần đầu tiên, không chỉ ở Việt Nam, Trần Đình Sử đề xướng hai khái niệm then chốt, có ý nghĩa chìa khóa: hình thức quan niệm và quan niệm nghệ thuật về con người. Dùng hai khái niệm này, Trần Đình Sử đã khắc phục quan niệm cơ học về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức văn học, theo đó, nội dung là cái có trước, cái quyết định, tồn tại bên ngoài hình thức, nên trong sáng tác, người ta có thể sử dụng “bình cũ rượu mới”. Được tiếp thu từ lí luận văn học và mĩ học Xô – viết, quan niệm này từng thống trị ở ta một thời gian rất dài. Đồng thời, với hai khái niệm chìa khóa nói trên, ông biến nhiều phạm trù thi pháp văn học vốn quen thuộc thành một hệ thống lí thuyết chặt chẽ của riêng mình.
Thứ hai, có thể nhận ra hệ thống lí thuyết về thi pháp học của Trần Đình Sử được xây dựng theo logic như sau. Sáng tác văn học, trong quan niệm của ông, là sử dụng các phương thức, phương tiện văn học để tạo ra một thế giới nghệ thuật, trao cho nó một hình thức chỉnh thể. Hình thức chỉnh thể của sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng bao gồm hai mặt: mặt quan niệm và mặt cụ thể, cảm tính. Ông phân biệt hai mặt ấy của hình thức nghệ thuật. Nếu mặt cụ thể cảm tính là hình thức tổ chức chất liệu, mô tả đời sống một cách sinh động, hữu hình, có thể được chia tách thành các “đoạn”, “cảnh”, “chương”, “khổ”, “hồi”, thì mặt quan niệm lại là hình thức của cái nhìn bên trong. Nó tổ chức ra một văn bản tinh thần mà từ đó độc giả có thể lắng nghegiọng điệu và thanh âm của tiếng nói, cảm nhận được không gian, thời gian và không khí của một thế giới nghệ thuật. V.I. Lênin cảm thấy bức bối, ngột ngạt như ngồi trong Phòng số 6 của bệnh viện khi đọc Phòng số 6 của A. Chekhov là trường hợp như thế. Thực chất, hình thức quan niệm thuộc loại hình thức kiến tạo (“architectonics”). Nó là một loại siêu ngôn ngữ. Đồng thời, đó là một cấu trúc giá trị, thể hiện quan niệm của nhà văn, của xã hội và thời đại về con người và thế giới. Khác với hình thức cụ thể, cảm tính của đối tượng, hình thức quan niệm mang tính hệ thống, thể hiện ở sự lặp lại trong các motiv nghệ thuật. Loại hình thức này vừa được kế thừa, mang tính bảo thủ tương đối, vừa thường xuyên được cách tân để nó mở rộng khả năng phản ánh hiện thực, theo sát sự vận động của đời sống, nhờ thế tiến trình văn học vừa phát triển liên tục, vừa có sự đột phá, tạo thành các giai đoạn, thời kì, thời đại văn học và qui luật phân kì lịch sử của nó. L. Ghinburg có lí khi cho rằng, tiến trình văn học là tiến trình không ngừng hình thức hóa (formalization) và giải hình thức (deformalization). Hình thức quan niệm sẽ tạo ra kiểu tác giả, quyết định sự hình thành hệ thống thể tài (genre) trong sáng tác của nhà văn. Vì văn học là nhân học, nên hình thức quan niệm sẽ được thể hiện ở quan niệm nghệ thuật về con người. Văn học còn thể hiện quan niệm về thế giới và lịch sử, nên hình thức quan niệm sẽ quyết định nguyên tắc tổ chức không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật của nó. Cuối cùng, hình thức quan niệm chi phối cả các phương thức, phương tiện tổ chức chất liệu của văn học.
Tóm lại, tính hệ thống, tính lặp lại, tính kế thừa và cách tân của hình thức quan niệm sẽ tạo nên“cái lí” bên trong của hình thức. Theo Trần Đình Sử, cái “cái lí” bên trong này của hình thức nghệ thuật sẽ là đối tượng nghiên cứu của thi pháp học hiện đại.
Thứ ba, tiếp cận đối tượng từ hệ thống lí thuyết như thế, lần đầu tiên, Trần Đình Sử đã phân tích đầy thuyết phục “cái lí” của hình thức nghệ thuật trong thơ Tố Hữu. Ông chỉ ra, như đã nói, Tố Hữu đã đưa hình thức thơ trữ tình chính trị Việt Nam phát triển lên tới đỉnh cao của nó. Loại hình thơ này thể hiện tư tưởng, tình cảm chính trị của thời đại, phát hiện ý nghĩa chính trị của các hiện tượng đời sống. Thời đại Tố Hữu là thời đại đấu tranh giải cấp, thời đại giải phóng dân tộc. Xuất hiện trong bối cảnh ấy, thơ trữ tình chính trị của ông xây dựng hình tượng cái tôi trữ tình nhiệt huyết, nhiều vai, đứng giữa mọi người và tạo ra một hệ thống thể tài (genre) chuyển dần từ thế sự (trong Từ ấy và một phần của Việt Bác) sang lịch sử - dân tộc (phần lớn thơ trong Việt Bắc và các tập về sau như Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa). Đồng thời, thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu thể hiện nổi bật, nhất quán quan niệm nghệ thuật về con người chính trị Việt Nam. Đó là con người giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin (“Tôi sẵn có trong mình/ Dôi mắt thần chủ nghĩa”, “Mác – Lênin vĩnh viến mắt trời”), muốn diệt cả phong kiến, lẫn “thực dân, đế quốc một bầy”, dẫu biết “đường cách mạng” đã “Dấn thân vô là phải chịu tù đày <…> Là thân sống chỉ coi còn một nửa”, vẫn sẵn sàng “Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”. Trần Đình Sử phát hiện, quan niệm nghệ thuật về con người chính trị này sẽ rào kín, khiến con người đời tư và những chi tiết của đời sống sinh hoạt thường nhật rất khó thẩm thấu vào thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Con người chính trị trong thơ Tố Hữu dường như lúc nào cũng “đi”, “chạy”, “bay” trên đường, con đường và quảng trường là nơi diễn ra mọi hoạt động chính trị của nó. Cho nên không gian con đường là hình tượng không gian nghệ thuật trong thơ Tố Hữu. Ứng với không gian con đường là thời gian lịch sử. Thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu lấy thời gian lịch sử làm thước đo sự vận động của mọi hiện tượng đời sống, kể cả các sự kiện đời tư mang tính cá nhân, ví như “Liên Xô nở trước đời tôi ba tuổi”. Điều thú vị là không gian con đường trong thơ ông bao giờ cũng chỉ mở ra ở một phương, một hướng. Nó dâng cao thành “đỉnh cao muôn trượng”, trải rộng ra “bốn hướng mênh mông bao la trời đất” và vươn xa thành con “đường thiên lí”: “Có những lúc trên đường thiên lí/ Ta đang đi bỗng thấy lạ lùng/ Trên đầu ta, trời rộng vô cùng/ Và trước mặt, đất dài vô tận”. Ứng với không gian con đường một phương, một hướng là thời gian lịch sử phi tuyến tính, chỉ có một thời: thời tương lai, hướng về ngày mai và phía trước. Trong Tiếng hát Sông Hương, chàng thanh niên giác ngộ lí tưởng hứa với cô gái giang hồ: “Ngày mai gió mới ngàn phương/ Sẽ đưa cô tới một vườn đầy xuân”. Trong Việt Bắc, người cán bộ rời chiến khu về thủ đô hứa với đồng bào ở lại: “Ngày mai về lại thôn hương/ Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về/ Ngày mai rộn rã sơn khê/ Ngược xuôi tàu chạy bốn bề lưới giăng”. Và trong Ba mười năm đời ta có đảng, nhân vật trữ tình của Tố Hữu say mê nghe “gió ngày mai…”: “Đẫ nghe nước chảy lên non/ Đã nghe đất chuyển thành con sông dài/ Đã nghe gió ngày mai thổi lại/ Đã nghe hồn thời đại bay cao”.
Cuối cùng, theo Trần Đình Sử, hình thức quan niệm chi phối cả chất thơ và phương thức biểu hiện chất thơ. Ông phận tích cặn kẽ cách sử dụng chất liệu ngôn từ và tổ chức lời thơ để tạo nên điệu nói trong thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Ông chứng minh hình ảnh ngôn từ trong thơ Tố Hữu thể hiện một thế giới đang bừng sáng, bốc cháy, nóng bỏng. “Cả thế giới trong thơ Tố Hữu, ngoại trừ bọn phản động, tất thảy đều phát sáng”. Ông chỉ ra, Tố Hữu sử dụng nhiều thủ pháp để tạo nên nhạc điệu, sức mạnh lôi cuốn và sự “mê hoặc” của thơ.
Những gì đã nói cho thấy, trong Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử, thi pháp tác giả và thi pháp học lịch sử được xây dựng trên nền tảng vững chắc của một hệ thống thi pháp học lí thuyết. Ưu điểm nổi bật của công trình này là tác giả của nó không hề áp đặt cho thơ Tố Hữu bất kì một luận điểm tiên nghiệm nào từ phía bên ngoài. Mọi nhận xét của ông về “cái lí của hình thức” trong thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu đều được phân tích, diễn giải, chứng minh bằng chính ngôn ngữ thơ của tác giả.
Rất dễ nhận ra cuốn sách của Trần Đình Sử đã kế thừa tinh hoa của toàn bộ nền thi pháp học hiện đại Nga, từ thi pháp học lịch sử của A.N. Veselovski, D S. Likhchev, thi pháp học mô tả của V.B. Shklovski và Trường phái hình thức Nga, “thi pháp học nội dung” của P.N. Pospelov, thi pháp học cấu trúc của trường phái kí hiệu học Tartus – Moskva, cho đến triết học nhân vị luận, lí thuyết thể loại lời nói và nguyên tắc đối thoại của M.M. Bakhtin. Tiếp thu tinh hoa của nền khoa học ấy, Trần Đình Sử đã xây dựng cho riêng mình một hệ thống lí thuyết không giống ai. Hệ thống lí thuyết thi pháp học này là sự tái cấu trúc của cả tân tu từ học, kí hiệu học, tự sự học, lẫn lí thuyết diễn ngôn. Với nội dung như thế, nó góp phần chuyển đổi hệ hình của nền khoa học về văn học ở Việt Nam từ phê bình ấn tượng sang phê bình khoa học, từ xã hội học văn học sang nghiên cứu nghệ thuật học sáng tạo ngôn từ.
Khi viết những dòng này, tôi bỗng nghĩ lẩn thẩn, nếu Thi pháp thơ Tố Hữu được viết lại, liệu Trần Đình Sử sẽ sửa chữa, bổ sung những gì? Tôi đoán, ông sẽ bổ sung, sửa chữa không ít nhận xét về thơ Tố Hữu, vì bây giờ, sau gần bốn mươi năm, chắc chắn ông đã nghĩ khác đi nhiều về bản thân nhà thơ và sáng tác của nhà thơ này. Nhưng với những gì đã phân tích ở trên, tôi tin ông chẳng cần sửa sang gì nhiều cái khung lí thuyết và hệ thống lập luận của công trình, bởi nó có sức sống riêng, không phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu. Sức sống và khả năng tái sinh của hệ thống lí thuyết được Trần Đình Sử hoàn thiện trong trong Thi pháp thơ Tố Hữu thể hiện ở cả sức lan tỏa và tầm ảnh hướng rộng lớn của nó đối với nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam, lẫn ở chính những công trình nghiên cứu của ông, ví như Dẫn luận thi pháp học ,Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại, Dẫn luận thi pháp học văn học, hay Thi pháp Truyện Kiều
LN
Đồng Bát, tháng 10.2025.

 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét