Thứ Ba, 10 tháng 5, 2016

1. SO SÁNH ĐOẠN MỞ ĐẦU “KIM VÂN KIỀU” VỚI “TRUYỆN KIỀU”





1. SO SÁNH ĐOẠN MỞ ĐẦU “KIM VÂN KIỀU” VỚI “TRUYỆN KIỀU”
Chúng tôi đã nói đến việc Nguyễn Du thay đổi cấu trúc và nội dung Truyện Kiều (TK) so với Kim Vân Kiều (KVK) của Thanh Tâm Tài Tử. Chính vì thế mà hệ quả kéo theo là các đoạn quan trọng trong TK, Nguyễn Du cũng sáng tạo và xây dựng theo cách riêng của mình. Những chi tiết cụ thể của mỗi đoạn được Nguyễn Du làm lại theo sự hình dung và tình cảm của nhà thơ dành cho nhân vật. Sau đây, chúng tôi bắt đầu tiến hành đối sánh việc mở đầu và giới thiệu, miêu tả tài sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân giữa hai tác phẩm.
 Mở đầu tác phẩm và giới thiệu Thúy Kiều và Thúy Vân, Thanh Tâm Tài Tử viết trong KVK:
Khoảng năm Gia Tĩnh nhà Minh, ở thành Bắc Kinh có nhà Vương Viên ngoại tên là Lưỡng Tùng, tự là Tử Trinh, vợ họ Hà, hai vợ chồng cùng hiền hậu, gia sản vào hạng trung bình, sinh hạ được hai con gái đầu lòng và một con trai út tên gọi là Vương Quan, cậu cũng theo đòi nghiệp nho. Con gái trưởng là Thúy Kiều, gái thứ là Thúy Vân, hai cô đều có nhan sắc diễm lệ, tính nết nhu mì, và giỏi thơ phú. Riêng phần Thúy Kiều lại có thái độ phong lưu, tính thích hào hoa và lại tinh về âm luật, sở trường nhất là món Hồ cầm.
Thúy Vân thì trời phú cho cái tính điềm đạm, nên thấy chị quá say mê Hồ cầm, thường can gián chị rằng: Món âm nhạc đâu phải là công việc của bọn khuê phòng, sợ khi tai tiếng ra ngoài thì cũng bất nhã. v. v…
Kể ra Vân nói cũng có lí đấy. Nhưng với tính tình của Kiều thì không cho là đúng, lại còn sáng tác ra khúc “Bạc mệnh oán” để phả vào đàn, mỗi khi dạo lên nghe rất não nuột, khiến người nghe bên cạnh ứa lệ rơi châu”. Tiếp theo là 3 trang in nói về nội dung khúc “Bạc mệnh oán”. (Phạm Đan Quế - Truyện Kiều đối chiếu, trang 50-53).

Nguyễn Du viết trong TK:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen
Cảo thơm lần giở trước đèn
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh

Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh
Bốn phương phẳng lặng hai kinh vững vàng
Có nhà Viên ngoại họ Vương
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung
Một trai con thứ rốt lòng
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia
Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn , nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
 Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một , tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân
Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Có thể rút ra những gì từ việc đối sánh hai đoạn trên?
- Thứ nhất, Nguyễn Du đã không mở đầu bằng việc thuật lại thời gian và giới thiệu lai lịch nhân vật như trong KVK. Nhà thơ Việt Nam đã viết tám câu lục bát nói khái quát về thuyết tài mệnh tương đố, những chuyện đau lòng được chứng kiến khi lịch sử thăng trầm và điều đó đã được chép trong sách vở. Truyện phong tình đó, có thể chính là KVK mà Nguyễn Du trân trọng gọi là cảo thơm. Ngay từ đầu, nhà thơ Việt Nam đã nói rõ văn bản mà ông vay mượn.
 - Thứ hai, nhà thơ có nói thêm về hoàn cảnh câu chuyện xảy ra thời Gia Tĩnh:
Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
- Thứ ba, nhà thơ đã dành nhiều công sức để miêu tả khá chi tiết, mặc dù bằng thủ pháp ước lệ về tài sắc, tính tình của hai chị em. Trong khi KVK chỉ nói tóm tắt "hai cô đều có nhan sắc diễm lệ, tính nết nhu mì, và giỏi thơ phú” thì Nguyễn Du miêu tả khái quát nhưng cũng rất hình ảnh về hai người:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
 - Thứ tư, khác với KVK nói về cô chị trước, Nguyễn Du lại nói về Thúy Vân, cô em trước. Các cụ xưa nay hay nói rằng tả Vân trước để rồi tả Kiều sau là "biện pháp đòn bẩy". Nhưng lại quên mất rằng đây là hai vẻ đẹp khác nhau (mỗi người một vẻ), vì thế qua vẻ đẹp của Thúy Vân, người đọc không thể thấy được vẻ đẹp của Thúy Kiều. Tả trước hay sau cũng vậy thôi. Vấn đề ở đây có lẽ là Nguyễn Du nói nhân vật phụ trước (Vương Quan, Thúy Vân) để rồi tập trung nói dài, nói kĩ về nhân vật chính sau. Nhân tiện nói thêm rằng, trong KVK, trật tự cũng thuận là nói hai cô chị trước, nói cậu em sau. Nguyễn Du nói Vương Quan trước, rồi mới nói đến hai cô chị.
- Thứ năm, trong khi Thúy Vân ở KVK chỉ được nói khái quát "có nhan sắc diễm lệ, tính nết nhu mì, và giỏi thơ phú", sau đó thêm một nét "tính điềm đạm", thì cô Vân của Nguyễn Du cụ thể hơn nhiều từ khuôn mặt, nét lông mày, nụ cười, giọng nói, nước tóc, làn da. Một Thúy Vân cụ thể, sinh động hiển hiện trước mắt người đọc chỉ trong bốn câu lục bát. Như thế chẳng phải là tuyệt vời sao? 
 Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
- Thứ sáu, trong KVK , Thúy Kiều chỉ khác cô em không nhiều lắm. Đó là "có thái độ phong lưu, tính thích hào hoa và lại tinh về âm luật, sở trường nhất là món Hồ cầm". Nguyễn Du lại nhấn mạnh đến tính chất "sắc sảo, mặn mà" và nhà thơ không ngần ngại đánh giá Kiều hơn Vân cả về sắc, cả về tài:
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
- Thứ bảy, trong khi ở KVK, hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân không khác nhau mấy, chỉ khác về tính tình, thì hai cô trong TK khác hẳn nhau. Chẳng những về sắc đẹp, tài năng, tính tình mà cách miêu tả, giới thiệu của Nguyễn Du cũng khác. Miêu tả Thúy Vân, mặc dù là ước lệ, nhưng Nguyễn Du tả khá chi tiết và dễ hình dung. Còn Thúy Kiều thì cụ thể đấy nhưng lại trừu tượng hơn. Rõ ràng đấy, nhưng lại nhòa mờ hơn.
Mắt trong như nước mùa thu, lông mày tươi xanh như núi mùa xuân. Hoa ghen thua thắm là thua sắc thắm của làn môi, của đôi má hay là sự duyên dáng đằm thắm? Liễu hờn kém xanh là kém về màu xanh của mắt xanh, tóc xanh hay của tuổi xanh: "hải đường mơn mởn cành tơ"?
(xem bài Phương pháp tấm gương và bức chân dung khó vẽ).
Thứ tám, trong KVK chỉ nói vắn tắt hai chị em "giỏi thơ phú", riêng Thúy Kiều thì thêm giỏi âm luật, sở trường là Hồ cầm. Trong TK, Nguyễn Du dùng nhiều câu thơ để nói vẻ đẹp và sức quyến rũ của nhan sắc Thúy Kiều, tính thông minh, cái tài riêng của Thúy Kiều (thêm tài vẽ, tài ca ngâm) sau khi nói chung hai chị em có tài, có sắc.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên xoang
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
Thứ chín, trong KVK, tác giả kết thúc đoạn văn ở việc nói về tài Hồ cầm của Kiều. Trong khi viết thơ, Nguyễn Du thêm bốn câu bình luận về vẻ phong lưu của hai chị em, về cuộc sống êm đềm trong gia đình không giao tiếp với bên ngoài. Đó là một nghệ thuật chuyển đoạn mềm mại, độc đáo của Nguyễn Du.
Chín điểm khác biệt của Nguyễn Du, những khác biệt có chủ ý làm cho Kiều và Vân đẹp hơn, tài năng hơn, và đáng yêu hơn. Ấy là chưa kể đến Nguyễn Du đã ngầm báo trước số phận hai nhân vật. Thúy Vân sẽ thuận lợi, suôn sẻ trong cuộc đời vì thiên nhiên tự nguyện chịu thua, chịu nhường (Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da). Còn Thúy Kiều thì sẽ gặp nhiều tai ương, trắc trở vì thiên nhiên đố kị hờn, ghen (Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh). Số phận Kiều đã được dự báo trước theo quan niệm tài, mệnh tương đố và "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen".
Viết có lớp lang và dự báo kín đáo như vậy, nếu không phải là một ngòi bút thiên tài, không có tấm lòng yêu thương, trân trọng nhân vật phụ nữ như Nguyễn Du thì không thể làm nổi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét