CÓ MỘT HAINƠ (Heinrich Heine) TUYỆT VỜI TRONG BẢN DỊCH CỦA
CHU THU PHƯƠNG
Qua tập
“Khúc
đệm trữ tình”, Nhà xuất bản Văn Học, 2015
Vũ Nho
Tháng 9 năm
2024 tôi mới có dịp may mắn tiếp xúc trọn vẹn với nhà thơ Đức lừng danh Hainơ.
Trước đó, chỉ đọc một số bản dịch thơ lẻ của ông trên các báo và tạp chí. Nhà
thơ có ảnh hưởng khá sâu rộng trong giới ham thích thơ ca Việt. Chả thế mà đã
có một sự nhầm lẫn bài thơ “Bông huệ trắng”
của nhà thơ Bế Kiến Quốc với thơ Hainơ, một chuyện hi hữu trên thi đàn.
65 bài thơ,
chủ yếu là thơ ngắn, chủ yếu là thơ tình cho người đọc hình dung một Hainơ yêu
đắm say, cuồng nhiệt, một “người
sáng lập ra thơ tình yêu hiện đại” như đánh giá của nữ văn sĩ Elke
Schmitter.
Trong bài viết
của Thạc sĩ Christian Liedtke “ Heinrich Heine và cuốn Khúc đệm trữ tình”,
người viết đã khái quát:
“Dù thế nào đi nữa thì , Khúc đệm trữ tình của ông cũng là kho tàng của tình yêu và của những lời nói về tình yêu, bởi, đó có là khát vọng, hi vọng, hạnh phúc hay vỡ mộng, ghen tuông, chán chường, đau khổ, niềm vui, thẹn thùng, buồn chán,v.v… gần như tất cả các cảm xúc của tình yêu đều có trong tập thơ, và Heine tìm ra được những từ ngữ vừa xác thực vừa thi ca cho hầu hết những cảm xúc này. Những nhà thơ ngày nay cũng trở đi trở lại hướng tới những cảm xúc ấy, những cảm xúc mà Heine đã sử dụng những kết hợp đặc biệt, từ cách bày tỏ cảm xúc một cách trực tiếp, đồng thời giữ khoảng cách với những cảm xúc ấy gần như không lặp lại” ( tr.193)
Khúc dạo đầu
là câu chuyện đượm màu cổ tích về mối tình đắm say giữa Hiệp sĩ “buồn bã và lặng câm”, “trơ như gỗ, vụng về, lích kích”. Chàng
được người yêu từ trời “rực rỡ thắm hồng
như một bông hồng nhỏ” đánh thức khát vọng yêu đương. Chàng như thấy mình bị
“phù phép”, trở nên cuồng dại, dạn dĩ, mạnh bạo. Và thế là :
Hiệp
sĩ là chàng rể, Ngư nữ là nàng dâu
Dàn trinh nữ chơi đàn
dây khắp chốn
Say mê, đắm
đuối “ mọi tri giác dường như đã bỏ chàng
đi đâu mất/ Chàng ôm ghì nàng áp sát tận lòng mình”. Rồi như một giấc mơ:
Ánh sáng chan hòa vụt tắt
Hiệp sĩ đơn độc trong căn nhà lặng ngắt
Góc thư phòng ảm đạm
Để lại bao tiếc
nuối một giấc mơ huy hoàng!
Bài thứ nhất là sự ca ngợi “Trong tuyệt vời tháng năm xinh đẹp”, khi nơi nơi cây cối đâm chồi,
khi muôn vàn chim chóc ríu ran thì cũng chính là lúc trong chính giữa trái tim,
Tình
yêu bừng tỉnh giấc sinh sôi! Tình yêu sinh sôi, phát triển mạnh như chồi biêc, lộc non khi nhà thơ thú nhận “Những ước ao, khao khát với nàng”. Không
phải là ngẫu nhiên mà bài thơ này được phổ thành 83 bản nhạc truyền tụng “ trở thành “Hit” ( “ Đỉnh” ) của thời đại đó”. ( tr.197)
Vẫn với tinh
thần ca ngợi sức mạnh kì diệu, tuyệt vời
của tình yêu, ngay cả khi buồn đau, mất mát.
Từ giọt nước mắt tôi nhỏ xuống
Bật nở muôn cánh hoa tưng bừng
Từ tiếng thở dài tôi não nuột
Hợp xướng họa mi vang lừng
( Bài 2)
Đó là khi
tình yêu không thuận, tình yêu gây buồn đau, thất vọng. Còn khi tình yêu được đáp đền, được chấp thuận,
được khẳng định “nếu em yêu tôi” thì “ bao hoa muôn màu tôi hái trao” và
Trước cửa sổ em ngân vọng mãi
Khúc ca họa mi ngọt ngào
Tình yêu của
Em. Chính Em là niềm say mê, thay cho mọi niềm say mê cũ của nhà thơ . Hốt nhiên liên tưởng tới bài thơ
tình độc đáo của R.Gamzatov, nhà thơ cửa xứ Đa ghétstan khi ông viết đại ý:
Tôi yêu Em
Trong em có một trăm người thiếu nữ
đã yêu
Ở
đây Heine viết về sự “giảm số lượng”,
nhưng thực chất chỉ là “quy gọn” :
Giờ tôi không còn yêu, lòng chỉ còn có một
Một nhỏ nhắn, một nhã nhặn, một
trong trắng, một duy nhất
Nàng là ngọn nguồn bao say đắm tuyệt
vời
Cả hoa hồng, cả hoa huệ, cả bồ câu,
cả mặt trời
(
Bài 3)
Người yêu – EM
là người có sức mạnh thần kì, siêu
nhiên. Có thể xua tan bao đau khổ, làm tăng sức
mạnh, tăng lòng khát khao. Vậy mà sao lại có chuyện có vẻ ngược đời:
Mà khi em nói : “Yêu anh”
Sao nước mắt rơi cay đắng
( Bài 4)
Phải chăng ở đây có sự gặp gỡ với Xuân Diệu, ông hoàng
thơ tình của Việt Nam: “ Em là yêu mến của
ta/ Mến yêu vô hạn em là nỗi đau” ?
Cả bài thơ này nữa cũng sao mà gần gũi với Xuân Diệu của
chúng ta! Phải chăng những tư tưởng lớn, trái tim lớn thường gặp gỡ nhau:
Hãy áp má em vào má anh
Cùng cho đôi dòng lệ quyện hòa
Ghì tim em vào tim anh chặt
Cùng bừng chung ngọn lửa đôi ta […]
Khi tay anh ghì em vào mãnh liệt
Anh chết vì khát khao
(
Bài 6)
Còn đây là Xuân Diệu của Việt Nam:
Hãy sát đôi đầu, hãy kề đôi ngực
Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài
Những cánh tay! Hãy quấn riết đôi
vai
Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt
Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt…
(Xa
cách)
Như một lẽ tự
nhiên, khi nói về tình yêu, về người mình yêu, nhà thơ hay nói đến những bộ phận
cơ thể : mắt, môi, má, vòm ngực, buồng
tim. Bài 14, Heine viết cho đôi mắt
bài thơ ba đoạn, viết cho đôi môi “ tuyệt
khúc đoản ca nho nhỏ”, viết cho
đôi gò má “ tuyệt diệu thơ tám câu vần”.
Còn trái tim hồng thì cả “ một bài thơ
Sonett” ( 1 4 câu). Bài 19 tác giả cũng nói về trái tim, đôi môi, đôi mắt,
khuôn ngực người tình,…
Bênh
vực, ngợi ca người yêu, nhà thơ cực đoan
cho rằng “Thiên hạ thật ngu, thiên
hạ thật mù” khi “xầm xì về em”,
không hiểu được em ( Bài 15). Và khẳng định:
Em dễ thương ngọt ngào đến vậy
Nhà thơ nào tạo nổi em đây
(
Bài 16)
Và nhà thơ tự dặn lòng, dù cho nàng làm gì đi nữa: Em không
yêu tôi, em không yêu tôi […] Em ghét, ghét tôi vô cùng ( Bài 12); “Em đã
quên rồi, quên trọn vẹn/ Thời gian ta chiếm giữ trái tim em” ( Bài 21); “Nàng đã tự tay xé nát rồi/ Xé nát đi trái
tim tôi” ( Bài 22); Nàng đã bỏ ta đi
( Sao em bỏ ta đi?) ( Bài 23),… tình
cảm của tác giả vẫn không thay đổi:
Kiên nhẫn, kiên nhẫn và thứ tha
Cho người đàn bà điên rồ, quyến rũ
(
Bài 17)
Phải chăng, đó là sự cao thượng? Phải chăng đó là minh
triết của tình yêu?
Hầu
như tất cả trạng thái tình cảm khi yêu : hưng phấn, hụt hẫng, vui sướng, đau khổ,
ngờ vực, ghen tuông, chán chường, tuyệt
vọng, hi vọng,… đều được thể hiện phần lớn
bởi người xưng “Tôi”. Nhưng, khi nhà thơ xưng “Tôi” trong các bài thơ, rất
nhanh chóng và tự nhiên, TÔI ấy trở thành tôi riêng của người đọc, và rồi thành
chúng tôi đông đảo và cuối cùng thành ra CHÚNG TA của mọi người! Vì vậy mà sức
phổ biến và phổ quát của nó rất rộng rãi, to lớn.
Điều đó cắt nghĩa vì sao Heine được đánh giá rất cao
không chỉ thời đó mà sau này và mãi mãi…
Bây
giờ xin dành đôi lời cho người dịch.
Dịch giả Chu Thu Phương dịch thơ là một công việc
“thiên nan vạn nan”, nhất là lại dịch thơ của một nhà thơ nổi tiếng không chỉ của
nước Đức mà của toàn thế giới. May mắn
là người dịch không chỉ giỏi tiếng Đức, mà còn đến tận quê hương nhà thơ, gặp gỡ
với những người bạn Đức, nhận sự động viên, khuyến khích của những người Việt
am hiểu văn hóa Đức. Dịch giả “ mong muốn không chỉ là đưa bạn đọc đến gần nội
dung của những bài thơ, mà còn muốn trả lại đúng thi pháp, cấu trúc, thể thơ,
nhịp điệu, cách gieo vần, chơi chữ của từng bài thơ, giúp bạn đọc Việt Nam tiếp
cận được với vẻ đẹp nguyên gốc của thơ Heine” (Câu chuyện dịch Khúc đệm trữ
tình, tr 13). Tất nhiên ngoài sự thông tuệ, ngoài tình yêu thơ Heine vô bờ, người dịch
phải dồn rất nhiều tâm sức cho mong muốn đó.
Để
đánh giả bản dịch này, thiết tưởng không gì thuyết phục hơn là đoạn nhận xét của
Thạc sĩ Christian Liedtke có ở cuối sách
này:
“Độ ngắn của các bài thơ và vẻ giản dị nổi bật
của ngôn ngữ trong các bài thơ đã khơi gợi cảm hứng cho các dịch giả. Tuy
nhiên, giữ được cả vẻ đẹp ẩn mình trong
cái giản dị này trong bản dịch là một điều không hề đơn giản. Bởi vẻ đẹp ấy lại
nằm trong nhịp điệu, trong âm thanh và âm vang nội tại của những lời thơ ông viết.
Nhiều bản dịch các bài thơ của ông đã xuất hiện ngay khi Heine còn sống, đặc biệt
là các bản dịch tiếng Pháp – lại là những bản dịch thành văn xuôi, mà vẻ đẹp
này bị mất một cách tự nhiên. Dịch giả Chu Thu Phương ngược lại đã có những nỗ
lực trung thành với bản gốc theo cách riêng của chị. Chị đã hoàn thành bản dịch
đầy đủ đầu tiên của toàn bộ tập Khúc đệm
trữ tình bằng tiếng Việt và tập trung đặc biệt vào việc tái hiện vẻ đẹp
ngôn ngữ Heine, trung thành đến mức có thể với những cách gieo vần và cả cấu trúc của thơ
trong tập Khúc đệm trữ tình của ông.
Chị để tâm kĩ càng đến những nét tinh tế
như việc Heine sử dụng những từ vay mượn từ tiếng nước ngoài ( thường là từ tiếng
Pháp) cũng như những điểm nhấn tượng thanh của nhiều bài thơ. Một ví dụ đặc biệt
ấn tượng minh chứng cho điều này có thể thấy ở bài số 6 của Khúc đệm trữ tình. Hiệu ứng âm thanh đầy
hình ảnh mà cách dùng vần trùng điệp nhiều lần trong câu thơ “ Cùng bừng
chung ngọn lửa đôi ta” tạo nên trong tiếng
Đức đã được chị tái tạo một cách tài tình đến mức cả trong bản tiếng Việt người
ta cũng thực sự nghe thấy được cái hừng hực đam mê “cùng bừng chung” của ngọn lửa.
Chu Thu Phương không chỉ đưa ra một bản dịch chính xác về ngôn ngữ và độ dài –
chị đã đạt tới nghệ thuật khiến cho Heine trong tiếng Việt cũng thực sự vang lên như Heine vốn có”.
Một
đánh giá cao, rất cao về người dịch!
Sau
này Chu Thu Phương còn công bố bản dịch
tập thơ “Tóc rối” của nhà thơ nữ Akiko Nhật Bản. Tập thơ dịch cũng giành
được sự yêu mến của đông đảo người đọc Việt Nam.
Dịch
không nhiều, nhưng Chu Thu Phương xứng đáng nhận danh hiệu dịch giả sáng giá,
nhất là dịch thơ, một lĩnh vực khó khăn
mà không nhiều dịch giả thành công!
Hà
Nội, 21 tháng 9 năm 2024
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét