VỌNG ĐÔNG HẢI
Truyện ngắn của Nguyễn Đình Gấm
Ông vừa nhận chức Chủ tịch tỉnh. Khi các cuộc liên hoan chúc tụng
chấm dứt, cũng đúng dịp cuối tuần, ông về quê. Sáng sớm, việc đầu tiên là
ông vào thắp hương đền Đức Ông.
Đền thiêng lắm, dân trong vùng từ Hậu Lộc đến Quảng Xương đều về
đây dâng hương tế lễ, xin lộc vào đầu tháng ba, trước mùa đi biển. Ai đi biển
đều đến thắp hương, khấn vái Đức Ông để cầu bình an, để cầu thuyền đầy tôm
cá. Tương truyền, Đức Ông là người có công khai phá vùng này, ông tổ của
các làng chài này đã từ mấy trăm năm rồi.
Ông đi dạo một mình trên bờ biển, cảm thấy thư giãn, bao lo toan với
nhiều sức ép công việc của người đứng đầu một tỉnh lớn dường như được rũ
bỏ. Ông ngắm bình minh trên biển. Những câu chuyện, những giai thoại mà
ông nghe được về Đức Ông, về ngôi đền trong nắng sớm và gió biển xôn xao
làm cho đầu óc ông mông lung, hư hư thực thực…
“Từ mấy trăm năm trước, một người đã qua tuổi trung niên dạt tới nơi
này cùng vợ và ba đứa con, hai trai một gái. Ông là kẻ sỹ của xứ Nghệ bất đắc
chí với đời, từng phiêu bạt nơi chân trời góc bể theo người Tàu, người Nhật
lênh đênh khắp nơi cùng chốn.
Hơn nửa đời người phiêu bạt, sống nơi đất khách quê người, khi sức đã
yếu ông dạt về đây nương náu, ngày ngày ra đứng trước biển lòng đau đáu
một nỗi niềm canh tân đất nước. Nơi đây, cha ông một người không may
mắn, đã chết trong một trận bão khi cùng đội Hải binh của triều đình ra
Hoàng Sa làm nhiệm vụ. Ông khác cha mình là người có học, được đi đây đó
nhiều hơn. “Tại sao cũng là người, cũng máu đỏ da vàng mà người ta giàu
sang sung sướng thế còn dân mình thì nghèo khổ, cơm chẳng đủ ăn áo không
có mặc? Vì người ta có tàu lớn đi ra biển còn mình thì chỉ nhắm mắt trước
biển, không ra biển xa đánh cá bắt tôm mà cứ quanh quẩn bên thửa ruộng bạc
màu cấy lúa trồng khoai, suốt năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời mà
nghèo vẫn hoàn nghèo”. Ông đặt ra câu hỏi và tự trả lời.
Đêm đêm, ngoài kia biển sóng gầm gió rít ông thao thức bên ngọn đèn
dầu lạc vắt óc, tìm lời, dồn tâm huyết vào ngòi bút viết ra kế sách “Vọng
Đông Hải chấn hưng Đại Việt”.
Với áo sồi, túi vải, cơm nắm, muối lạc không quản đêm ngày ông lặn
lội về kinh dâng sớ cho vua. Ở chốn kinh thành ông thấy bao điều thị phi, bao
nỗi oan ức bất công của dân nghèo. Lính cận vệ không cho ông vào cung, ông
đút lót mấy nén bạc cho người ta, cuối cùng tờ sớ cũng đến được quan thái
giám, người luôn ở bên Hoàng thượng. Quan thái giám xem xong giật mình
đốt đi ngay và câu chuyện rơi vào im lặng không ai hay biết gì.
Ông về quê lòng bồn chồn chờ đợi mà chẳng thấy tin tức gì. Hàng ngày
ông ra bờ biển từ mờ sáng đến tối mịt mới về. Ông ngồi như pho tượng cứ
đăm đắm nhìn ra biển từ lúc bình minh cho tới lúc hoàng hôn. Có lúc biển
gầm lên sủi bọt làm ông giận phát phẫn cả người. Tóc ông bạc trắng hơn, lưng
còng xuống hơn nhưng đêm đêm ông lại thức cùng ngọn đèn dầu lạc, lại sửa
chữa, lại viết bức sớ tâm huyết “Vọng Đông Hải chấn hưng Đại Việt” một lần
nữa. Ông lập luận khúc triết, nói rõ thiệt hơn, ý tưởng rõ ràng, giải pháp tường
minh với quyết tâm to lớn hơn. Máu và nước mắt hòa với mực tàu tuôn trào
nơi ngòi bút đã ra một bản tấu trình tâm huyết.
Một ngày đẹp trời ông lại lên đường với áo sồi, túi vải, cơm nắm, muối
lạc lặn lội về kinh. Lần này ông tâm niệm phải quyết gặp mặt rồng, phải yết
kiến hoàng thượng thì có chết ông cũng cam lòng. Lính gác cổng thành đuổi
không cho ông vào. Ông vật vờ, lang thang ngoài cổng thành. Khi hết lương
thực ông phải làm kẻ ăn xin, ăn mày kiếm sống để chờ thời. Trời cũng thấu
lòng ông. Một lần, vua ra ngoài tế lễ tiên đế, ông liều chết chắn xa giá Hoàng
thượng dâng sớ. Vua còn trẻ, rất tò mò và ấn tượng mạnh trước cảnh một ông
3
già gầy gò, tóc bạc, lưng còng, mắt sáng khấu đầu dâng sớ coi thường cả cái
chết. Người cho quân sĩ mời vào cung yết kiến.
Buổi thiết triều ngày Canh dần, tháng Ất tỵ, năm Đinh mão đã đi vào
lịch sử còn truyền lại đến ngày nay. Khác với những buổi yết triều mọi ngày,
có một ông già tóc bạc như cước, mặc áo sồi ngồi quỳ giữa hai hàng bá quan
văn võ. Bên tả quan văn thì mũ cao áo dài, bên hữu quan võ thì áo giáp uy
nghi, gươm giáo sáng lòa. Hoàng thượng mặc áo long bào ngự trên ngai vàng
có vẻ hưng phấn lắm. Ngài tò mò và thích thú chứ không buồn ngủ ngáp ngắn
ngáp dài như mọi khi. Ngài trịnh trọng mà thân mật hơn mọi ngày:
- Các khanh, có kẻ dâng kế sách “Vọng Đông Hải chấn hưng Đại Việt”.
Từ khi trẫm được ngự triều chưa có bản tấu nào kỳ lạ như vậy. Ai biết gì về
Hoàng Sa, Trường Sa ở Đông Hải nói cho trẫm hay?
Các quan nhìn nhau rồi nhìn Nam Phong. Hoàng thượng cũng nhìn vào
Nam Phong, một vị quan tóc đã bạc trắng, nói:
- Ông Nam Phong đại học sĩ, ông biết gì về Hoàng Sa, Trường Sa, nói
cho văn võ bá quan nghe.
Nam Phong dáng vẻ một ông già lụ khụ, tóc bạc lưng đã hơi còng, rũ
áo bước ra:
-Muôn tâu bệ hạ, theo sách “dư địa chí” thì Đông Hải là một biển lớn
nằm ở phía đông nước ta, nước xanh và mặn chát sinh ra muối; cũng là nơi
phát tích của phong ba bão tố, nơi giao thương tàu thuyền của ta với các nước
lân bang. Hoàng sa và Trường Sa nằm xa tít ngoài Đông Hải. Hoàng Sa nằm
ở phía trên từ bắc miền trung chiếu thẳng ra, Trường Sa nằm ở phía Nam
Trung bộ kéo ra. Dạ, thần đã trấn ải miền trung, đã từng ra Đông Hải. Được
biết các đời vua, các Tiên đế đều có đội Hải binh chấn giữ Hoàng Sa và
Trường Sa.
Nhà vua cười sửng sốt:
4
-Ta khá khen cho quan đại thần, nhưng ta buồn là các khanh ở đây có
người chưa biết Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc lãnh hải, chủ quyền của nước
Đại Việt ta. Trẫm còn nhớ, khi còn nhỏ có lần theo Tiên đế kinh lý vùng
Đông bắc, Hải quan đưa đi thăm Hạ Long, Cô Tô sóng to biển lớn, có cả hang
động kỳ vĩ. Còn Hoàng Sa, Trường Sa thì tiên đế vẫn luôn nhắc phải quan
tâm giữ gìn, dù ở xa khơi cũng là da thịt của Tổ Quốc. Các khanh giúp ta cai
quản giang sơn gấm vóc mà không quan tâm đến đội Hải binh trấn giữ
Trường Sa, Hoàng sa thì thật là đáng trách.
-Xin bệ hạ tha tội.
Các quan văn võ quì lạy, răm rắp cùng một câu như nhau. Hoàng
thượng nhìn ông già đang quỳ dưới trướng và nói:
- Các khanh bình thân, nhà ngươi nói kế sách “Vọng Đông Hải trấn
hưng Đại Việt” cho ta và các đại thần nghe xem sao.
Ông già rũ áo đứng dậy tâu với vua và các quần thần. Giọng ông sang
sảng, lên bổng xuống trầm, lúc khoan lúc nhặt, hùng hồn thống thiết như chất
chứa bao điều của kẻ từng trải, của người có học đau đáu một khát vọng lớn
lao về kế sách phát triển canh tân đất nước. “Đại Việt ta muốn quân hùng
nước mạnh phải làm giàu từ biển và đi lên từ biển. Chúng ta cần phải mua tàu
lớn để bang giao và buôn bán với nước ngoài; cần phát triển nghề đánh cá,
nghề làm muối dọc ven biển; cần xây dựng hải quân có tàu to, súng lớn để
bảo vệ từ xa”. Ông dừng lại nhìn nhà vua, nói tiếp. “Triều đình cần đầu tư vào
xây dựng đội Hải binh Trường Sa, Hoàng Sa. Chúng ta vừa có tiền đồn để
bảo vệ từ xa, vừa để vững lòng quân. Muốn vậy phải cử hiền tài ra nước ngoài
học hỏi người Tây về tàu biển, người Lang Sa về thương mại, buôn bán,
người Trung Hoa về khí tượng, thiên văn, địa lý… Làm được như vậy thì Đại
Việt sẽ giàu có, hùng mạnh có thể sánh vai với các lân bang trong khu vực”.
5
Tất cả ngự triều im phăng phắc bởi người nói thật hùng biện, thống
thiết như rút ra từ gan ruột và những điều tâu trình thì thật là mới mẻ. Mọi
người như bừng tỉnh khi ông già vừa dứt lời.
Hoàng thượng gật gù vẻ đắc chí lắm:
-Ta khá khen cho tiên sinh, từ khi lên ngôi đến giờ trẫm mới được nghe
một bản tấu hay như thế. Trẫm phải ra Hoàng Sa, Trường Sa một phen, làm
vua thì tất cả giang sơn, bá tính là của Trẫm. Hoàng Sa, Trường Sa cũng là
một phần giang sơn của Trẫm. Các khanh thấy kế sách này thế nào, khá hay
đấy chứ?
Nguyễn Nam Phong, tiến sĩ hoàng giáp, đại thần phò hai đời vua, người
có uy tín nhất trong triều lại rũ áo, khấu đầu bước ra:
- Muôn tâu thánh thượng, thần xin liều chết để ngăn can thánh thượng.
Người dâng tấu thật là một kẻ ngông cuồng, kế sách này không thể thực hiện được.
Nhà vua giật mình, ngơ ngác. Các quan nhìn nhau chưa hiểu đầu đuôi
ra sao nhưng ai nấy đều gật gù.
-Sao lại không thực hiện được, khanh nói trẫm nghe nào?
Nhà vua hỏi lại. Quan đại học sĩ Nam Phong ung dung nói:
-Muôn tâu thánh thượng, nước Việt ta trải dài từ Bắc, Trung, Nam,
lưng dựa vào dãy Trường Sơn uy nghi, trông ra biển đông nhưng từ bao đời
nay ông cha ta đều thực hành phương châm “dĩ nông vi bản” lấy việc canh
nông, trồng lúa trồng khoai là gốc của sức dân, sức nước. Nhà nhà đều vậy,
người người thấm nhuần cái lẽ ở đời “gạo là ngọc thực”, “tương cà là gia
bản”; còn bình diện quốc gia bá tính luôn phải quán chiếu “thực túc binh
cường” nên rất coi trọng đắp đê, khai mương, làm ruộng để trồng lúa trồng
ngô là cái chính của kinh bang tế thế.
Ngài dừng lại như để lấy hơi lấy sức rồi ôn tồn nói tiếp:
-Các vua chúa, đời nào cũng vậy đều lấy đó làm phương châm, làm
nguyên tắc để cai trị mà xây dựng và bảo vệ giang sơn đất nước. Sử sách còn
6
ghi, Vua Lê Đại Hành vào đầu xuân xuống đồng đi cày cùng các lão nông tri
điền ở Đọi Sơn, Hà Nam đã treo tấm gương cho các hậu thế. Tiên đế cũng
không bao giờ quên bài học ấy, thần còn đích thân phò Người đi cày sau tết
nguyên đán vào ngày mồng 7 tháng giêng ở Đọ Xá, Bắc Ninh năm Canh Dần
.Vì vậy thần cho rằng quyết không thể thực hành kế “Vọng Đông Hải, chấn
hưng Đại Việt” của kẻ ngông cuồng kia được.
Nhà vua nghe Nam Phong nói thì bao nhiêu hứng thú vừa mới khởi lên
bay đâu hết cả, giờ lại bán tín bán nghi. Nhưng nhà vua vẫn nói, như cố vớt
vát cái điều làm cho Người thấy mới mẻ, thích thú:
-Vậy các quan văn võ, các ngươi có ý kiến gì nữa không. Chả lẽ Tiến
Sĩ Nam Phong đã nói đúng hết cả rồi à?
-Dạ chúng thần không có ý kiến gì, đồng ý với trình tâu của quan đại
thần Hoàng Giáp. Ta cứ theo Tiên đế, cứ nếp cũ mà làm.
Nhà vua còn đang chưng hửng thì chính Nam Phong lại rũ áo bước ra, nói:
-Muôn tâu thánh thượng, thần xét kỹ thì có một điều thánh thượng nên
theo và nên làm ngay.
-Có gì vậy. Nhà vua sửng sốt.
-Chính là việc quan tâm xây dựng đội Hải binh Trường Sa, Hoàng Sa
lớn mạnh. Thần được biết nhân lực ở đó còn ít và mỏng mà phải canh giữ hai
quần đảo lớn, lương thảo chu cấp không đầy đủ, tàu thuyền cũ và nhỏ nay đã
xuống cấp. Thần tấu trình cử ngay một vị Hải quan tài đức, chuyên tâm xây
dựng đội Hải binh tập luyện tinh thông về quân sự; trang bị ngay thêm tàu
thuyền mới, đồng thời có chính sách ưu đãi cho gia đình vợ con họ, để cán
binh yên tâm bảo vệ giữ gìn một phần giang sơn đất Việt ta ở mãi tận ngoài
trùng khơi.
Lại thêm vài ý kiến ủng hộ đề xuất của Nam Phong. Rồi nhà vua kết luận trước
khi bãi triều:
-Buổi ngự triều hôm nay rất đặc biệt, trẫm được nghe và biết thêm
nhiều điều, thật đáng tiếc bản tấu “Vọng Đông Hải trấn hưng Đại Việt” của
7
tiên sinh rất tâm huyết nhưng chưa thể thực hiện được. Bây giờ có việc cần
làm ngay là tập trung xây dựng đội Hải binh Trường Sa, Hoàng Sa. Trẫm giao
cho Bộ binh Nguyễn Tuấn chủ trì tiến hành. Bây giờ là đầu xuân, Trẫm cho
thời hạn một năm là phải xong rồi bẩm báo với Trẫm.
Thời gian thấm thoắt qua đi, bản tấu “Vọng Đông Hải chấn hưng Đại
Việt” vẫn nằm im trong tủ ở nơi làm việc của các Đại học sĩ.
Ông già trở về quê. Ngày ngày lại thấy ông ra ngắm biển đến tối mù
mịt mới về. Rồi người ta thấy ông đi đâu mất hút đến cả tháng trời mới về,
kéo theo một số thợ mộc và hàng chục đàn ông toàn những người to khỏe, sức
vóc. Họ khiêng về những cây gỗ lớn, rồi cưa, bào, đục… Một thời gian sau
mấy cái thuyền lớn cũng làm xong trước những con mắt ngỡ ngàng của dân
làng. Chẳng bao lâu, một làng chài ven biển đã hình thành. Hóa ra, ông già đã
bỏ hết bao tiền bạc đã tích cóp được qua mấy chục năm phiêu bạt buôn bán ở
xứ người để làm những con thuyền và thành lập đội đánh cá biển. Khi những
chiếc thuyền đánh cá ra khơi, ông già ngồi bên bờ biển trầm ngâm, đợi thuyền
về. Rồi dân làng chài cũng quen với chuyện đó, đã biết câu chuyện dâng sớ
nhằm canh tân đất nước không thành, nay ước mơ và tâm nguyện của ông là
xây dựng làng chài này ở ven biển.
Ông qua đời vào một ngày mưa bão, biển dậy sóng ầm ào tung bọt
trắng xóa. Người ta mai táng ông ở một doi đất ven biển, nơi mà ông đã trú
ngụ sau bao năm lang bạt khắp nơi. Không hiểu sao mộ của ông không đắp
mà ngày càng to, càng cao do cát di động vun vào làm thành một quả đồi cát
vững chắc, có phi lao vi vút, thông xanh luôn rì rào cùng sóng biển. Người
dân làng chài dựng đền thờ trên đó, gọi là đền Đức Ông. Hậu duệ của ông sau
này sinh sôi nảy nở rất nhiều, đều làm nghề chài lưới, đi biển. Con cháu đông
đúc lập ra nhiều làng chài dọc ven biển suốt từ Hậu Lộc đến Quảng Xương.
“Mình cũng là con cháu của Đức Ông”. Ông Chủ tịch như bừng tỉnh,
trở về với thực tại. Như có gì khơi gợi, thúc đẩy từ bên trong, lòng ông thấy
8
xốn sang, khó tả. Một nhu cầu được cảm nhận sự vĩ đại to lớn của biển, sức
mạnh của biển xâm chiếm tâm hồn. Ông dầm mình xuống biển ngay trong
buổi bình minh khi mặt trời vừa nhô lên khỏi mặt nước tỏa ánh sáng huyền
diệu như dát vàng dát bạc xuống trần gian. Sau vài vòng bơi ông thả mình thư
giãn, mặc cho nước biển vỗ vào mình như vuốt ve, như ôm ấp. Đã từng được
tắm biển nhiều nơi ở nước mình và quốc tế trong những chuyến đi công tác
nhưng cảm giác được tắm biển quê hương mình thật là đặc biệt. Ông cảm
nhận rõ ràng và trực tiếp cái mênh mông, mạnh mẽ vô biên của biển cả qua
làn da. Miệng ông thấy cái mặn mòi của gió và nước biển. Cơ thể ông đang
thấy rõ hơi thở phập phồng của đại dương, cả người ông như như tan ra hòa
trong nhịp đập đều đều, mạnh mẽ khác thường của biển, của trái tim mẹ đại
dương đang co bóp đẩy máu nuôi cơ thể làm nên sức sống của mọi sinh linh
trên trái đất. Ông càng rõ dần những điều đã được nghe, được bàn về những
nghị quyết, những chính sách, chủ trương về phát triển kinh tế biển. “Phải làm
giàu từ biển, đi lên từ biển như thế nào để cho dân vùng này thoát nghèo?
Phải làm thế nào để cho người dân bám biển, dám đi ra biển lớn? Việc trước
tiên là phải đầu tư, đầu tư cho ra tấm ra món để có những con tàu lớn, những
đội tàu trang bị hiện đại để vừa đánh bắt xa bờ vừa bảo vệ chủ quyền biển
đảo. Và phải tính đến đầu ra cho ngư dân bằng cách xây dựng những cơ sở
chế biến hải sản ở vùng này, ngay bên cạnh nơi Đức Ông yên nghỉ, người đã
không sợ chết để đưa kế sách vọng Đông Hải chấn hưng Đại Việt ngày xưa”...
Ông lẩm bẩm một mình và lặng yên nhìn ra biển mênh mông, xa hút tầm mắt.
Hà Nội thu năm 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét