LỖ TẤN- Ông qua đời năm 1936 và được an táng với một lá cờ ghi ba chữ "Dân tộc hồn", thể hiện sự tôn kính của nhân dân Trung Quốc dành cho ông.
Ông được xem là một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế kỷ 20 và có ảnh hưởng to lớn trong văn học và tư tưởng Trung Quốc.
Trong "Lược sử tiểu thuyết Trung Quốc", Lỗ Tấn đã không giới thiệu và phân tích "Kim Vân Kiều" Mặc dù "Lược sử tiểu thuyết Trung Quốc" là một công trình quan trọng bậc nhất của Trung Quốc
CÁI DŨNG CỦA TỪ HẢI- Sơn Kiều

Từ khoảng thập niên 50 của thế kỷ 20, mối quan hệ giữa tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc sáng tác (gọi tắt bản Thanh) và truyện thơ Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du ở Việt Nam (gọi tắt bản Nguyễn) được rất nhiều học giả quan tâm, giáo sư Hoàng Dật Cầu thuộc Đại học Sư phạm Quảng Đông là người đầu tiên chú ý đến mối quan hệ này, trong bản dịch Trung văn dịch từ Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du xuất bản năm 1959 của ông, trong phần lời tựa, học giả Bùi Kỷ khi ấy đã chỉ rõ, Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du chính được dịch ra trên cơ sở tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, tất nhiên cái gọi là phiên dịch ở đây được hiểu là quá trình cải biên đầy tính sáng tạo và có sự gia tăng cực lớn của giá trị văn hóa truyền thống. Ngoài ra, ở phần Dịch hậu ký, dịch giả cũng nêu rõ: “Kim Vân Kiều truyện vốn là một bản tiểu thuyết lưu hành ở Trung Quốc vào đầu đời Thanh. Nó miêu tả sự hoành hành của ‘Oa khấu’, sự nhu nhược của quan quân triều đình, sự hủ bại của hệ thống chính trị, sự tàn ác của xã hội phong kiến và sự cùng khổ của những con người bị áp bức….Tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du chính sáng tạo trên cơ sở hấp thu suối nguồn dưỡng chất từ bản tiểu thuyết chữ Hán của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ dân tộc, thể thức của ca dao dân ca Việt Nam và sự thuần thục của cá nhân nhà thơ trong việc vận dụng điển cố văn học Trung Quốc, đem nội dung tác phẩm chuyển tải một cách hết sức hoàn mỹ vào những câu thơ lục bát gọn gàng ngăn nắp.”(1) Ở đây, tuy dịch giả chỉ rõ mối quan hệ giữa hai bản Kim Vân Kiều truyện của hai nước Trung Việt, thế nhưng vẫn chưa triển khai nghiên cứu so sánh; thêm vào đó, dịch giả với phần giới thiệu hết sức giản lược về Kim Vân kiều truyện của Trung Quốc và sự phản ánh có phần thiên lệch về nội dung tác phẩm, điều này chứng tỏ khi viết những lời trên dường như tác giả vẫn chưa hề xem qua tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân. Tháng 12 năm 1973, học giả Việt Nam du học tại Đài Loan Trần Quang Huy trong luận án tiến sĩ Nghiên cứu mối quan hệ giữa truyện nôm Việt Nam và tiểu thuyết Trung Quốc, đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa bản Thanh và bản Nguyễn, trên cơ sở sử dụng bản dịch Hán văn của Trương Cam Vũ, tác giả đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa hai văn bản ở các khía cạnh tình tiết, nhân vật, tư tưởng và phương thức biểu đạt, sau cùng đưa ra kết luận: Nguyễn Du đã sử dụng một một bản Kim Vân Kiều truyện hết sức bình thường làm lam bản, sau đó sáng tạo ra một tác phẩm văn học bất hủ; sự thiên tài cùng khả năng sáng tạo tuyệt vời của Nguyễn Du hoàn toàn không thể hiện ở tình tiết câu chuyện, mà chủ yếu thể hiện ở nghệ thuật biểu đạt.(2)
Trên thực tế, từ trước những năm 80 của thế kỷ 20, tất cả các bộ sách, giáo trình về lịch sử văn học Trung Quốc, bao gồm cả Trung Quốc tiểu thuyết sử lược của Lỗ Tấn đều không đề cập đến Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tháng 10 năm 1983, lần đầu tiên nhà xuất bản Văn nghệ Xuân Phong cho xuất bản bộ tiểu thuyết chương hồi từ lâu đã thất truyền này, sách lấy tên tác giả là Thanh Tâm Tài Nhân, do học giả Lý Trí Trung hiệu điểm. Trong phần Hiệu hậu ký phụ thêm ở cuối sách, học giả Lý Trí Trung đề cập đến ảnh hưởng của bộ tiểu thuyết đối với văn học Nhật Bản, ông cho rằng: thứ nhất, Nguyễn Du dùng bản Thanh làm đề tài, đem tác phẩm cải biên thành truyện nôm (tiểu thuyết theo thể văn vần), bản Thanh đem đến cho bản Nguyễn ở bốn khía cạnh nội dung, tình tiết, nhân vật và tư tưởng; thứ hai, diễn biến và tình tiết câu chuyện trong hai tác phẩm hầu như không có gì khác nhau, Nguyễn Du chỉ sửa chữa đôi chút theo tác giả là chưa hợp lý thể hiện ở các khía cạnh tình tiết, miêu tả nhân vật, khắc họa tâm lý nhân vật, những thay đổi này không chỉ thể hiện dụng tâm của tác giả, mà còn khiến tác phẩm của ông so với bản Thanh khăng khít, mới mẻ, sinh động và giàu tính biểu cảm hơn; thứ ba, bản Nguyễn có tầm ảnh hưởng cực lớn ở Việt Nam, những nhân vật trong tác phẩm như Thúy Kiều, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Sở Khanh, Tú Bà… không chỉ nhà nhà đều biết, mà còn trở thành những hình ảnh điển hình, mang tính biểu tượng về các loại người trong xã hội, hơn nữa trong giai đoạn thực dân Pháp chiếm lĩnh Việt Nam, bản Nguyễn còn là đại biểu tượng trưng cho tiếng Việt và dân tộc Việt Nam. (3) Từ giai đoạn này về sau, cùng sự hưng thịnh của văn học so sánh ở Trung Quốc đại lục, mối quan hệ giữa bản Thanh và bản Nguyễn đã trở thành vấn đề nổi cộm được rất nhiều học giả chú ý. Tổng quan những công trình có liên quan đến vấn đề này từ những năm 80 của thế kỷ trước, có thể thấy rõ, hầu hết các công trình được triển khai theo hai hướng sau:
Thứ nhất, nên đánh giá ra sao về hai tác phẩm nêu trên? Liên quan đến vấn đề này, trong giới nghiên cứu tồn tại hai luồng ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau: Một là, quan điểm của giáo sư Đổng Văn Thành thuộc khoa Trung văn, Đại học Liêu Ninh, ông cho rằng bản Nguyễn với tư cách là một văn bản mô phỏng, thế nên bất kỳ ở khía cạnh nội dung hay hình thức nghệ thuật đều không thể sánh với bản Thanh.(4) Học giả Đài Loan Vương Thiên Nghi trong luận văn thạc sĩ Kim Vân Kiều truyện nghiên cứu của mình cũng hoàn toàn tán đồng quan điểm của giáo sư Đổng. (5) Hai là, giáo sư Phạm Tú Châu, chuyên gia văn học Trung Quốc thuộc Viện Văn học Việt Nam, trong bài viết Đọc bản dịch Trung văn của bản Truyện Kiều Việt Nam của mình đã đưa ra quan điểm hoàn toàn trái ngược với giáo sư Đổng Văn Thành, bà cho rằng, quan điểm của ông Đổng chủ yếu hình thành trên cơ sở những khiếm khuyết của bản dịch Trung văn, trong bản dịch Trung văn của giáo sư Hoàng Dật Cầu, “hình ảnh Kim Trọng, Thúy Kiều đã mất đi vẻ cao nhã vốn có trong bản thơ nôm, mà nét cao nhã của nhân vật cùng sự hắc ám của xã hội thường dễ làm độc giả cảm động và dễ đem đến cho họ xúc cảm nghệ thuật nhất, đây cũng là điểm thành công nhất trong quá trình tiếp biến văn hóa của Nguyễn Du.”(6) Việc cho rằng bản Nguyễn ưu việt hơn bản Thanh hoàn toàn không phải bắt đầu từ quan điểm của Phạm Tú Châu, mà ngay từ năm 1973, học giả Trần Quang Huy đã nêu ra, điều này đã nói rõ ở phần trên. Từ sau thập niên 90 của thế kỷ 20, quan điểm cho rằng bản Nguyễn ưu việt hơn bản Thanh đã được giới học thuật thừa nhận, cụ thể vào năm 1997, học giả Kỳ Quảng Mưu trong bài viết Luận về truyền thống văn học và giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết chữ Nôm Việt Nam———Bàn luận thêm về thành tựu nghệ thuật của bản Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du cho rằng: “Kim Vân Kiều truyện sở dĩ nhã tục đều xem trọng, sở dĩ tác phẩm nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của cả một dân tộc và của nhân dân thế giới, ấy là bởi ngoài nội dung tư tưởng phong phú, tác phẩm còn là sự thành công tuyệt đối trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc” (7) Vào năm 2001, học giả Lý Quần trong chuyên luận Kim Vân Kiều truyện: Từ tiểu thuyết Trung Quốc đến tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam cho rằng, chính ngòi bút tuyệt khéo của Nguyễn Du đã làm cho Truyện Kiều thêm phần hương sắc, nhân vật Thúy Kiều trong bản Nguyễn so với nhân vật cùng tên trong bản Thanh cũng đoan trang hơn, giá trị thẩm mỹ cao hơn, nghệ thuật biểu đạt đặc biệt là phương diện khắc họa tâm lý nhân vật so với bản Thanh cũng xuất sắc hơn. (
Năm 2007, hai tác giả Hà Minh Trí và Vi Mậu Bân trong bài viết So sánh quá trình sáng tác hai bộ Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam và Trung Quốc cho rằng, bản Nguyễn ca dao dân ca Việt Nam, dùng thể thơ lục bát để cải biên bản Thanh, bản Nguyễn cấu tứ, sáng tạo trên cơ sở bản Thanh, trong đó cả tình tiết và thế giới nhât vật đều bộc lộ rõ xu hướng thẩm mỹ của tác giả, so với bản Thanh, bản Nguyễn đã có sự nâng cao ở phẩm vị văn hóa và tư tưởng.
Thứ hai, so sánh sự giống và khác nhau giữa bản Nguyễn và bản Thanh. Học giả Vi Hồng Bình trong bài viết So sánh Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc và Việt Nam trên cơ sở so sánh tất cả mọi điểm giống và khác nhau giữa hai tác phẩm, cho rằng hai tác phẩm có ba điểm giống nhau: thứ nhất, nội dung gần như không có gì khác nhau; thứ hai, đều sáng tạo trên cơ sở những sáng tạo của tiền nhân; thứ ba, bối cảnh xã hội mà cả hai tác giả sống về cơ bản là giống nhau. Về điểm khác biệt giữa hai tác phẩm, có thể kể ra bốn khía cạnh sau: thứ nhất, văn thể không giống nhau, một dùng thể thức của tiểu thuyết chương hồi phát triển trên cơ sở của thoại bản, một dùng thể thơ lục bát; thứ hai, thời điểm ra đời của hai tác phẩm hoàn toàn không giống nhau, thời gian cách biệt giữa chúng dài tới hơn 100 năm; thứ ba, địa vị xã hội của hai tác giả hoàn toàn khác nhau, một là thân phận di thần của triều Minh, một là một vị đại học sĩ, có địa vị xã hội cũng như danh tiếng văn học cực cao; thứ tư, hai tác phẩm ra đời trong hai hoàn cảnh xã hội hoàn toàn khác nhau, bản Thanh ra đời trong hoàn cảnh dòng tiểu thuyết tài tử giai nhân bị dư luận xã hội xem nhẹ, còn bản Nguyễn do được viết dưới hình thức lục bát, hình thức mang đậm tính dân tộc, nên ngay từ khi ra đời đã được mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam nồng nhiệt đón nhận.(10) Bài viết của các tác giả Dương Hiểu Liên, Vương Ngọc Linh, Hà Minh Trí, Vi Mạo Bân, Lữ Vĩnh… thảy đều tiến hành so sánh hai tác phẩm ở một số phương diện như chủ đề, hình tượng nhân vật, tác giả, thành tựu nghệ thuật…. Dương Hiểu Liên khi so sánh hai tác phẩm ở khía cạnh chủ đề chỉ ra rằng, bản Nguyễn ngoài việc khẳng định giá trị của các phạm trù trung, hiếu, nhân, nghĩa như bản Thanh, còn đặc biệt đề xướng quan điểm mệnh số của tôn giáo.(11) Vương Ngọc Linh trong quá trình so sánh hình tượng nhân vật Thúy Kiều thuộc hai tác phẩm chỉ ra rằng, cùng là nhân vật “tài nữ”, nhưng bản Thanh trọng chữ “tài”, còn bản Nguyễn lại trọng chữ “nữ”, nguyên do là bởi hình tượng “tài nhân” trong văn học Trung Quốc đã lấn át thậm chí che lấp hoàn toàn đặc điểm của “nữ tử”; hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong bản Thanh chính thể hiện sự dung hợp của ba nhân tố xã hội “tình”, “đức”, “dục” thịnh hành ở giai đoạn Minh Thanh, đồng thời cũng thể hiện đặc trưng vừa trọng “danh” vừa trọng “thực” của văn hóa Trung Hoa.(12) Hà Minh Trí và Vi Mậu Bân khi tiến hành so sánh hai tác giả của hai tác phẩm cho rằng, tác giả của bản Thanh là người thất bại trên con đường khoa cử, dùng tiểu thuyết để ký thác lý tưởng xã hội, lý tưởng nhân sinh, nhấn mạnh tình cảm thực, tình yêu thực và tự do cá tính, điều này chính biểu hiện tư tưởng tình cảm của tầng lớp thị dân trong xã hội Trung Quốc; còn tác giả của bản Nguyễn là người có địa vị hiển hách cả trên văn đàn và trong chính trị, thế nên ông ta cực kỳ xem trọng các phạm trù trung, hiếu, nhân, nghĩa và khía cạnh phê phán xã hội.(13) Lữ Vĩnh trong quá trình so sánh thành tựu nghệ thuật của hai tác phẩm nêu rõ, có một số điểm tương đồng giữa hai tác phẩm như sau: “Một là, tuy viết về kỹ nữ nhưng không đi vào khai thác nội dung dâm ô.” “Hai là, đặc biệt xem trọng yếu tố kịch tính của tác phẩm, tính phê phán của xã hội cũng khá rộng.” “Ba là, đầu cuối liên hợp, kết cấu hết sức tinh mật.” “Bốn là, tính cánh của các nhân vật được xây dựng hết sức khác nhau.” Tác giả còn chỉ rõ nhược điểm của cả bản Thanh và bản Nguyễn: “Thứ nhất, cả hai đều chủ trương quan điểm mệnh số, tức ‘tài mệnh tương đố’.” “Thứ hai, cả hai tác phẩm đều dùng thủ pháp ‘vẽ rắn thêm chân’, tức đều sắp xếp chi tiết sau khi để Thúy Kiều trầm mình xuống dòng Tiền Đường, được Giác Duyên cứu lên, lại sắp xếp cho Thúy Kiều, Thúy Vân tình cờ gặp nhau, để vẹn mối nhân duyên mỹ mãn một chồng hai vợ là ‘Kim’ ‘Vân’ và ‘Kiều’ .” “Thứ ba, nguyên mẫu nhân vật Từ Hải vốn là bọn cướp biển nhũng nhiễu dân lành, lại có mối liên hệ với một số thế lực tại Nhật Bản, đem những người ấy để xây dựng thành những anh hùng chốn nhân gian, dường như chẳng bằng học theo tác giả của Thu hổ khâu xây dựng họ thành những nhân vật biến hình, để tránh sự mâu thuẫn giữa nhân vật và sự thực lịch sử cũng như đảm bảo tính chân thực của hình tượng nghệ thuật.”(14)
Từ tình hình nghiên cứu có liên quan đến nội dung bài viết của chúng tôi nêu trên, có thể thấy rõ rằng, giới học thuật đối với việc nghiên cứu so sánh giữa bản Nguyễn và bản Thanh đã hết sức toàn diện, từ tác giả, bối cảnh thời đại đến các yếu tố nội tại thuộc tác phẩm như đề tài, chủ đề, hình tượng nhân vật, văn thể, kết cấu, độc giả đều đã được thiết cập nghiên cứu ở nhiều trình độ khác nhau. Những nghiên cứu này đối với việc hiểu sâu về hai tác phẩm không chỉ có ý nghĩa tích cực, mà còn là tiền đề quan trọng cho những nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề thuộc hai tác phẩm. Rõ ràng bản Nguyễn sản sinh trên cơ sở cải biên từ bản Thanh, mức độ ảnh hưởng của bản Thanh rõ ràng không thể so sánh cùng bản Nguyễn, việc đem hai tác phẩm so sánh với nhau, nhằm chỉ ra điểm giống và khác nhau, chỗ cao chỗ thấp giữa hai tác phẩm tựa như những vấn đề thuận lý thành chương, nhưng vấn đề đáng làm để bạn đọc, đó chính là, bản Nguyễn đã cải biên văn hóa Trung Quốc ra sao để từ một tác phẩm tiểu thuyết tài tử giai nhân không mấy thành công đã trở thành một tác phẩm văn học thuộc hàng kinh điển trên thế giới? Đây cũng là vấn đề bài viết của chúng tôi muốn đi vào giải quyết.
Trước tiên, hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong bản Thanh thông qua quá trình cải biên của Nguyễn Du đã lý tưởng hơn.
Đem bản Nguyễn và bản Thanh so sánh với nhau, cái gọi lý tưởng hóa của hình tượng nhân vật Thúy Kiều trong bản Nguyễn so sánh với bản Thanh chính thể hiện ở một số khía cạnh như tài nghệ, tính cách….
Nhìn từ góc độ tài nghệ, kế thừa bản Thanh, bản Nguyễn cũng xây dựng Thúy Kiều thành một nhân vật “tài nữ”, thậm chí so với bản Thanh còn đặc biệt nhấn mạnh tài thơ và tài đàn của Thúy Kiều. Bản Nguyễn ngay từ hai câu đầu đã nói rõ chủ đề của tác phẩm: “Trăm năm trong cõi người ta; chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”(15) Tài nữ mệnh bạc đã trở thành vấn đề trung tâm của truyện thơ. Đọc xong toàn bộ tác phẩm, hình tượng tài nữ Thúy Kiều với khả năng thi ca tuyệt vời và tài đàn khiến bất kỳ ai cũng phải vỗ án xưng tuyệt luôn đem đến cho độc giả ấn tượng cực kỳ sâu sắc.
Có học giả cho rằng, hình tượng Thúy Kiều của bản Thanh có xu hướng thiên về “tài”, còn của bản Nguyễn có xu hướng trọng về “nữ”. Đem quan điểm này so sánh với thực tế cải biên nhân vật Thúy Kiều trong bản Nguyễn, chúng ta sẽ nhìn rõ điểm không thích đáng, trên thực tế, hình tượng Thúy Kiều trong bản Nguyễn ở khía cạnh tài năng rõ ràng được nhấn mạnh hơn, việc Nguyễn Du muốn đem hình tượng nhân vật này lý tưởng hóa, tất yếu phải nhấn mạnh thêm khía cạnh “tài nữ” của cô, điều này có thể thấy rất rõ trong văn bản của tác phẩm. Ví dụ, ở đoạn Thúy Kiều và Kim Trọng vượt tường gặp gỡ và tự đính hôn ước, bản Thanh viết đến đoạn Thúy Kiều đề thơ cho hai bức tranh Sơn cư đồ và Tiểu dương xuân đồ trong thư phòng của Kim Trọng, Kim Trọng khen rằng: “Thơ viết thật hay, thật đâu kém tài phu nhân họ Vệ. Vật gì mà đến khéo, sao lại có vật khéo đến vậy, thật khiến tiểu sinh yêu chết đi được.” “Mỗi chữ là một viên châu, dẫu có vật mang giá trị liên thành cũng không dễ đổi. Hơn nữa, tình cảm thấm đẫm, thật sự đạt tới ý mà họa công không thể vẽ, có thể nói càng xem càng thấy kỳ diệu vậy!”(16) Bản Nguyễn đem hai bức tranh trên viết gộp thành một bức tranh vẽ cây tùng cô độc, lời thơ viết rằng: “Tay tiên gió táp mưa sa; khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu. (Kim Trọng) Khen tài nhả ngọc phun châu; nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này.”(17) Đem hai đoạn so sánh với nhau, rõ ràng tài thơ của Thúy Kiều trong bản Nguyễn có phần vượt trội hơn so với tài thơ của Thúy Kiều trong bản Thanh, điều này được thể hiện khá rõ thông qua tư thế đề thơ của Thúy Kiều cùng những lời ngợi khen của Kim Trọng. Một điều đặc biệt đáng chú ý nữa là, khi tiến hành cải biên bản Thanh, Nguyễn Du đã lược đi toàn bộ số thơ ca do Thúy Kiều viết, cách làm này của Nguyễn Du không những không làm giảm tài năng của Thúy Kiều, mà ngược lại còn đem đến cho độc giả không gian vô cùng của hoạt động tưởng tượng; trái ngược với bản Nguyễn, bản Thanh liệt kê cụ thể tất cả các tác phẩm thơ của Thúy Kiều, làm như vậy tất nhiên thuận lợi cho người đọc có thể xem trực tiếp tác phẩm của tài nữ, thế nhưng nếu thơ viết quá thường, ấn tượng về tài thơ cùng sự tài hoa của Thúy Kiều trong lòng độc giả cũng sẽ bị mất điểm. Ngoài ra, tác phẩm thơ cụ thể xuất hiện trong tác phẩm nói cho cùng cũng chính là thơ do tác giả sáng tác, chúng có mối quan hệ mật thiết với tài năng thi ca của tác giả, trong quá trình đọc tác phẩm, độc giả chỉ có thể cảm nhận tài năng thi ca của tác giả, còn tài thơ của nhân vật ra sao thì chỉ có thể dựa vào sự tưởng tượng. Lại nhìn từ phương diện kết cấu, nếu trong tác phẩm tác giả liệt kê cụ thể những tác phẩm thơ của Thúy Kiều, làm như vậy không chỉ khó phát huy tính tích cực đối với việc thúc đẩy sự phát triển của tình tiết và việc miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật, mà còn khiến cho kết cấu của tác phẩm thiếu sự nghiêm cẩn, thậm chí dẫn đến lỏng lẻo, rời rạc.
Để đưa Web!

BÀI VIẾT CÔNG PHU, KHÁCH QUAN! TIẾC LÀ TAC GIẢ CHƯA ĐỌC CUỐN CHUYÊN LUẬN CỦA VŨ NHO : " TỪ KIM VÂN KIỀU ĐẾN TRUYỆN KIỀU, SO SÁNH VÀ BÌNH LUẬN" . NXB THANH NIÊN TÁI BẢN 2019. VŨ NHO ĐÃ SAO SÁNH TOÀN DIỆN CÁC ĐOẠN TRÍCH, CÁC NHÂN VẬT, CÁC VẤN ĐỀ,...VÀ CHỈ RA RẰNG NGUYỄN DU ĐÃ LÀM MỚI , LÀM HAY HƠN NHIỀU SO VỚI THANH TÂM TÀI NHÂN. VÌ THẾ MÀ TRUYỆN KIỀU LÀ KIỆT TÁC CỦA THẾ GIỚI!
Trả lờiXóa