Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

Bài viết của Vũ Nho trên Diễn đàn VNVN tháng 6/2017






XUÂN ĐAM NHÀ THƠ QUÊ LÚA

Đọc Tuyển tập thơ văn Xuân Đam, nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2015



                                                    Vũ Nho



Một tuyển tập dày dặn được in kịp cho Xuân Đam nhìn thấy khi nhà thơ bệnh trọng. Thất đáng nể phục các văn, thi hữu Thái Bình đã làm một công việc nghĩa cử đẹp đẽ, ấm áp tình của những người cầm bút với nhau.

Công bằng mà nói, ngoài việc thương mến một đồng nghiệp, những bạn bè còn vô cùng thương mến một nhà thơ tài hoa, một Nguyễn Bính tái thế của vùng quê lúa. Nhà thơ Xuân Đam là niềm yêu, là niềm tự hào của các bạn viết Thái Bình. Không phải ngẫu nhiên mà Bùi Hoàng Tám khẳng định : “ Ở Thái Bình, nếu chọn một nhà thơ được đọc nhiều nhất, được mến mộ nhất và cũng nổi tiếng nhất, đó là nhà thơ Xuân Đam” ( Xuân Đam, thơ – đời và rượu).

Là một giáo viên tài năng, từng cầm súng nơi mặt trận, rồi lại tiếp tục cuộc đời dạy học, làm thơ, Xuân Đam đã trải nghiệm có thể nói là tất cả những nỗi buồn  niềm vui, những gian nan, vất vả, hiểm nguy và những ngọt ngào cay đắng của một đời người. Các bạn viết đã khái quát, tóm tắt ba niềm đam mê của đời anh là thơ, rượu và…những bóng hồng. Thật hiếm có nhà thơ nào mà tên các tập thơ luôn đi liền với rượu. Sáu tập thơ in riêng thì có 5 tập có nhan đề  liên quan đến rượu : Rượu quê, Rượu lạnh, Rượu lửa, Rượu hátRượu đắng.

Rượu thơ xưa nay vốn là một cặp gắn liền với những tên tuổi của một số nhà thơ lãng tử. Bầu rượu, túi thơ từng là biểu tượng hành trang của người  phong nhã, hào hoa. Rượu thường kích thích sự  hưng phấn, thăng hoa, sáng tạo. Phải thế chăng mà Xuân Đam mê rượu, thậm chí thấy bạn rượu, bạn thơ của mình và có thể cả mình là “chai rượu “ biết đi:

Anh là chai rượu biết đi

Lằng ngoằng, lướt khướt, li bì, lung linh

                          Rượu hát

          Xuân Đam được bè bạn và người đọc mến yêu không phải vì «tài rượu» mà chính là vì mượn hơi men, anh đã  nhập đồng, ca hát về quê lúa, về những  ngôi làng, những người bà, người mẹ,  người thím, người chị. .. Những người phụ nữ nông thôn gánh chịu những mất mát, đau khổ của chiến tranh. Những làng quê tên gọi nôm na : làng Liềm, làng Diều, làng Cát, làng Mây, làng Diền... hoặc một làng vô danh : làng xưa. Những con người làng là những người bình dị :

          Người về sau cuộc chiến tranh

          Huân chương bỏ túi lại thành nông dân

                             Người về
                                                                                       Nhà thơ Xuân Đam


Đó là một người mẹ cả đời tần tảo, chờ chồng,  hi sinh vì con cái :

          Cầm lòng một bát cơm nâu

          Dưới chân nước cóng , trên đầu mưa bay

          Mẹ tôi như nhánh mạ gầy

          Hóa thân làm bát cơm đầy nuôi tôi

          Miếng trầu không dám mặn vôi

          Sợ đôi má đỏ người đời gièm pha

                                       Tình mẹ

Đó còn là một người thím qua chiến tranh, chồng mất, các con hi sinh:

          Một đời trăm trận bão giông

          Thím tôi bỏm bẻm trầu không, lặng nhìn...

                               Thím tôi

Một người bà như bao bà cụ thôn quê, nơi nào cũng có :

          Bà, bà ơi, cơn lũ năm nào

          Bà cõng cháu như con nhện cõng trứng trèo qua ngọn cỏ

          Trèo qua mùa đông  trèo qua mùa hạ

          Trèo qua nỗi khổ hi hóp bà cười

                              Bà ơi

Nhà thơ đã cất lên tiếng nói của họ, băn khoăn nỗi băn khoăn của họ, những con người mộc mạc, hiền lành chỉ biết hi sinh trong chiến tranh, xong cuộc chiến lại trở về đồng ruộng :

          Cắm cây mạ giữa đất cằn làm tin

          Nguôi ngoai sức ép bom mìn

          Giờ thêm sức ép đồng tiền… càng đau

          Chân què thập thễnh theo trâu

                          Người về

Trong khi đó, một số kẻ giàu sang thì lại chỉ là những tên gian lận, khai man mà thành ra quan chức, rồi bán mua quyền chức :

          Ai giờ đệm gấm giàu sang

          Khai man lí lịch, khai man tình đời

          Bán mua quyền chức một thời…

                        Đồng đội ơi

Là người con của nông thôn, của quê lúa, nhà thơ bao giờ cũng lo lắng, băn khoăn về quê,  về chuyện no đói, về  những người làm nông nghiệp « Sống với đất, chết lại hàm cạp đất/ Mụn và chằng kim không kín mảnh vai gầy » ( Làng xưa và mẹ) :

          Cây đa đội nón đứng chờ

          Cánh đồng lọ mọ đói no mất còn

                            Quê cũ

Một nông thôn  với bao nhiêu chuyện đổi thay, phức tạp chứ không  bình yên ( Làng bao đời như thế. Bình yên)  như đã  từng như thế bao đời. Bây giờ làng có những kẻ lật mặt như trở bàn tay :

          Có thằng hai mặt đến chơi

          Rủ làm dịch vụ, nói lời nhân tâm

          Việc xong đá bạn xuống hầm

                          Thạch Sanh

Và  biết bao chuyện đổi thay đã len vào ngõ hẻm, hang cùng của một làng quê bình dị :

          Đã nghe nói chuyện sang hèn

          Đã nghe đút lót, đỏ đen thương trường

          Người thua đề, kẻ vỡ phường

          Đêm đêm kín cổng cao tường thèm nhau

                                 Tả thực

Thơ Xuân Đam được yêu thích, nâng niu vì anh « nói  về cái nghèo,  vất vả , lam lũ, lấm lem, cả những đau thương do thiên tai, địch họa, do những bất công trong đời sống xã hội làng đem lại cho người dân quê nhỏ nhoi, hiền hòa và cam lòng » ( Đỗ Trọng Khơi – Lời tựa).

           Trở lên là những điều chủ yếu trong phần thơ Rượu quê ( thơ lục bát) và Rượu lửa ( thơ tự do). Nhưng thơ Xuân Đam không chỉ có thế. Một mảng nổi trội của thơ anh là  thơ vui, thơ hài hước. Tôi muốn nhắc đến phần Rượu cười. Con người phải lạc quan lắm, yêu đời lắm và có khiếu hài hước lắm mới có thể vượt lên hoàn cảnh, đứng trên hoàn cảnh để mà cười. Thơ Xuân Đam cười bao chuyện dở khóc dở cười trong cuộc đời. Và trước hết, anh cười chính mình. Cũng giống như Tú Xương, Yên Đổ xưa tự trào mình trước rồi mới cười người, cười đời. Phần thơ cười cho thấy ngòi bút tung tẩy và cái duyên hài hước của Xuân Đam. Không biết bao lần anh giễu mình, giễu con người khác đời của mình ở hình hài, ở tính tình thi sĩ :

          Người ta nên giá nên danh

          Anh thì phấn đấu thành anh – buồn cười

                           Ngỏ

Chân dung tự họa theo lối hí họa của anh :

          Mò vào thơ  phú loanh quanh

          Bất tài trong cuộc chiến tranh ngôn từ

                                Tôi

Không ít lần nhà thơ tự nhận mình là thi sĩ nhì nhằng, thi nhân tỉnh lẻ, thi sĩ nhôi nhai, chữ nghĩa lem nhem :

            Ta là thi sĩ nhôi nhai

            Nhênh nhang thơ phú lai rai khóc cười

                                     Thi sĩ

          Ta khoe với bạn tình rằng

          Ta là thi sĩ nhì nhằng văn thơ

                                      Rằm

Nhà thơ cười cái việc làm thơ của mình, cười các thi hữu khi say một tấc lên giời, cười văn hóa phong bì, cười « ma người », cười chuyện báo hiếu, cười chuyện vợ hai, chuyện mất trộm, chuyện mua ti vi « vô tuyến tàng hình », chuyện ông giáo nghèo vợ con kì kèo, ôm giáo án và cái bụng đói lên giảng « Bước đường cùng », rồi chuyện giải thưởng, chuyện đại hội văn nghệ…

Có bút pháp của Bút Tre, có cái nhẹ nhõm, thâm thúy của Nguyễn Khuyến, có cái riết róng của Tú Xương, có cả chất trào lộng của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan. Nhưng tất cả đều nhuần nhuyễn trong giọng điệu Xuân Đam, người viết « Di chúc cho các vợ »  và « Dự thảo di chúc cho con ».

Xin dẫn ra vài ví dụ :

-         Thơ anh vô vị nhạt phèo

Hội thơ chưa cấp « hộ nghèo » hội viên

                     Hộ nghèo

-         Mai về mà tắm ao nhà

          Bỏ thêm nắm muối cũng là…Đồng Châu !

                                  Tắm biển

-         Cô nào dự định lấy chồng

Chọn « nhà thơ giả » thì không việc gì

                    Tôi tự tử

-         Đang làm một gã bầy hầy

Có gì một cái biến ngay ông gì

                      Ma người

Chắc chắn là nhờ tiếng cười này mà Xuân Đam thân với bao người và cũng vì vậy mà giải tỏa những bức  bí, vất vả,  lắm khi nghèo túng của cuộc sống nhiều  gian nan, phức tạp.

          Tập sách còn bao gồm những  tạp văn  trong phần Lợn đất ơi. Phần này cho thấy sức viết của Xuân Đam. Một số bài có lẽ tác giả làm thơ trước rồi mới viết thành tạp văn và ngược lại. Những tạp văn cũng khá giàu chất thơ và gợi nhiều suy ngẫm.

          Phần  thứ 5 cuối sách có tên Rượu tri âm. Đây là Xuân Đam với bạn bè và bè bạn với Xuân Đam.

Ở đầu sách cho biết có 34 người ủng hộ tài chính để ra tập sách này. Và tôi thống kê, có đến 66 lượt người được Xuân Đam tặng thơ. Nhà thơ cũng viết một số bài về thơ của bạn. Nhưng  nội dung chính của  phần này là những bài thơ tặng Xuân Đam, những bài viết đánh giá, phân tích thơ Xuân Đam. Tất cả đều minh chứng rằng Xuân Đam được bạn bè văn chương yêu mến, quý trọng. Và trong một chừng mực nhất định, nó giúp bạn đọc không chỉ miền quê lúa, mà của cả nước hiểu thêm những giá trị thơ văn của một nhà thơ say thơ, suốt đời sáng tạo đam mê.

                                                                        Hà Nội, 5/8/2015

                                                                                        5/2017





         









.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét