VÙNG MỎ TRONG THƠ CỦA
MỘT THỢ LÒ
Đọc “Bữa
cơm chiều ở nhà thợ mỏ” của Nguyễn Đình Thái, nhà xuất bản Hội Nhà văn,
2017
Vũ Nho
Anh thợ lò Nguyễn Đình Thái vốn là
một chàng trai quê ở làng Gọc, Thái Thụy, Thái Bình gắn bó với Mỏ hơn ba chục năm. Tập thơ lấy tên
một bài thơ được giải của anh làm tên chung. Dù người thợ lò viết về nhiều đề tài khác nhau nhưng nổi trội hơn cả có hai
đề tài. Đó là vùng Mỏ, nơi anh sinh sống, làm việc cho đến khi nghỉ hưu vẫn trụ
lại và làng quê Thái Bình, nơi in dấu tuổi thơ, nơi có cha
mẹ, những người thân của gia đình và cả mối tình đầu thuở “ ngu ngơ”. Nhưng có
lẽ ấn tượng nhất là những bài thơ viết về vùng Mỏ và những người thợ Mỏ. Bởi vì
đó là cuộc sống thường nhật của tác giả - thợ lò, của vợ anh - thợ nhà sàng, con trai anh- thợ lò, con gái anh- thợ nhà sàng, của bè bạn anh, những người làm Mỏ. Bài viết
nhỏ này xin tập trung vào chủ đề thứ nhất.
Một đời gắn bó
với Mỏ bằng một tình yêu nghề như mọi người yêu đất Mỏ, nhưng nhờ có khiếu văn
thơ, anh thợ lò Nguyễn Đình Thái đã ghi lại những vần thơ về cuộc sống vùng Mỏ
với tất cả nhọc nhằn, vất vả, hiểm nguy nhưng cũng không thiếu vui tươi, tự tin, tự hào nghề nghiệp.
Đây không phải
thơ của nhà thơ đến tìm hiểu thực tế vùng Mỏ rồi cảm xúc viết nên. Đây là thơ của người thợ gắn bó với mỏ, với công việc thường ngày ở độ sâu âm 50 mét của một thợ lò.
Khoan, cuốc, chèn, chống, đánh bích, lên
thìu, xếp cũi lợn, đóng đinh đỉa, đi guốc, sang sông,…tay vốn quen làm. Không những thế, tác giả đã trải nghiệm, đã sống
thực sự cuộc sống người thợ: “Tôi đã chắt
ở lò chân những hiếm hoi cơn gió mát/ Tôi đã hứng ở gương than những vòm họng
khát/ Tôi đã nhặt ở sân ga motoray những giọt mồ hôi đen[…] Tôi đã từng làm với
họ dưới lò trừ năm mốt/ Để biết mùi vị than tôi đã nếm/ Để biết dầu than khó tẩy,
tôi đã cùng thợ lò tắm/ Để thử đậm đặc bụi than tôi đã xuống tận gương lò”
( Những ý nghĩ từ sân ga motoray).Và người thợ ấy đem vốn từng trải, đem cái khéo
léo, lành nghề làm than sang một lĩnh vực mới, lĩnh vực thơ ca. Phải nói là anh
đã khá thành công khi dựng lại được chân dung tâm hồn của những người làm Mỏ.
Vũ Nho chủ trang
Đề
tài thơ ư? Cảm hứng thơ ư? Nhân vật trữ tình của bài thơ ư? Ngôn ngữ thơ ư? Tác
giả không phải tìm ở đâu xa. Từ một thợ
lò (Có
một người thợ lò), từ một bữa ăn thường nhật (Bữa cơm chiều ở nhà thợ mỏ),
từ bến xe đưa người lên tầng, xuống vỉa ( Bến bình minh), từ một cuộc giao ca
(Thay
ca, Một cuộc giao ca, Giao ca), từ một buổi sáng (Buổi sáng cuối đông ở Mỏ, Buổi
sáng trên tầng mỏ), từ một ca ba ( Tản mạn
ca ba dưới lò âm ba trăm, Đêm ca ba) từ quán bia
( Quán bia chiều thợ mỏ),…Những gì ở Mỏ, quen thuộc với thợ đều có
thể thành thơ.
Người làm thơ
không giấu niềm tự hào về những chàng trai, cô gái thợ đồng nghiệp của mình trẻ, khỏe, vui:
Những gương mặt sạm nâu
Những nét cười rất trẻ
Quản đốc “già “ nhất mỏ
Chừng đôi tám ba mươi
Cưng cứng tuổi chút thôi
(Sếp bên sàng hăm sáu)
Chỉ huy hơi bị máu
Chơi cực ngầu, kém ai
( Thay ca)
Anh cũng không giấu niềm tự hào khi bây giờ thợ lò đã làm khác
với thế hệ cha anh, có văn hóa cao hơn,
có máy móc hiện đại và đỡ nhọc nhằn:
Những cử nhân thạc sĩ làm than
Những nét, khởi động mềm,
khoan cứng lò
xuyên vỉa
Vì thủy lực, tiến giá trượt
thay
cột xà gỗ dẻ
“ Cũi lợn” sắt vuông
trần lò lưới
thép, máy combai
( Một
cuộc giao ca)
Đây nữa chân dung của họ:
Mắt thợ lò xuyên thấu than con gái
Những thợ lò hình như không
có tuổi
Những cái cười ánh loang
loáng kíp lê
Những nghịch ngầm nhoang
nhoáng trẻ thơ
Những nghiêm nghị trầm tư nhà
hiền triết
( Những ý nghĩ
từ lò chợ âm 51)
Chân dung đậm chất thợ mỏ độc đáo, không thể lẫn với bất kì
ngành nghề nào khác. Từ mái tóc “loáng dầu than lò chợ” cho đến mồ hôi, hơi
thở, quầng mắt:
Mồ hôi đen lã chã giọt tuôn rơi
Hơi thở đen xuyên vỉa than
triệu tuổi
Quầng mắt đen viền giống hội
hóa trang
(
Bữa cơm chiều ở nhà thợ mỏ)
Hình ảnh gương mặt đen, “ khuôn mặt đen đúa nhễ nhại”, mồ hôi
đen, và cả giọng cười cũng đen ( Nhặt được ở gương lò/ Một giọng cười đen nhánh – Khúc biến thể từ
than) thường gặp trong khi viết về thợ lò. Táo bạo và độc đáo nhất là tác giả hình
dung những thợ lò là những “mặt trời đen” trong lòng đất:
“Trong tối lò sâu, đen nhánh những mặt trời”
Đó là câu thơ người
thợ già “nháp thơ trong đáy mắt”
trong bài “Bữa cơm chiều ở nhà thợ mỏ”
được tặng giải A năm 2014.
Là thợ lò, tác
giả không kể khổ, không tung hô nghề làm
Mỏ, nhưng anh không thể không tự hào về những đồng nghiệp của mình. Họ là những
chàng trai giỏi giang, khéo léo, trong công việc, nhưng cũng rất tài hoa trong
sinh hoạt văn hóa văn nghệ:
“Ai dám bảo thợ lò không sành điệu
Ai thiếu gì nhưng chúng tôi
không thiếu
Chủ nhật nào cũng vũ điệu chachacha”
(Vũ khúc thợ lò)
Cả chuyện uống bia cũng thể hiện rõ chất thợ lò, chất thợ Mỏ
phóng khoáng, vô tư:
Người bán người mua hể hả chen nhau
Hể hả bán mua, hỉ hả cười mua
bán
Chẳng so đo không cần tính
toán
Sà xuống bàn bia, ai cũng anh
em
(
Quán bia chiều thợ mỏ)
Chỉ có người yêu mến đến si mê các chàng thợ mới có thể vẽ
chân dung họ bằng các từ ngữ đậm chất nghề như thế này:
Tôi ngắm những chàng trai
Sàn sàn chừng đôi tám
Cái miệng thì lem lém
Cái cười nhem nhẻm giòn
Chân đi guốc bên sàng
Mắt khoan gương con gái
Mặt đánh khuôn tươi rói
Ngực nêm cứng tiếng cười
(Thay ca)
Cái lém lỉnh của thợ lò như là một đặc điểm được nhấn mạnh bên
cạnh vẻ đẹp của gái nhà sàng “Trai thợ lò
hiền khô mà lém/ Gái nhà sàng chả kém là bao/ Họ bên nhau. Họ ríu rít trêu nhau”
( Gái Nghệ An lấy chồng thợ mỏ). Lém lỉnh đến mức tán các cô, các chàng khoe “Cánh tớ vào lò, mỏ trang bị cả gương soi”
( Trai làng ở mỏ). Các chàng thợ mỏ thì
như thế. Còn các nàng thì sao? Vâng, con gái mỏ xinh xắn, có duyên, thậm chí không
nhìn rõ mặt cũng cảm nhận được:
Chưa nhìn rõ mặt người
Cũng biết là xinh xắn
(Ơ kìa, đâu phải tán)
Gái mỏ vốn đã duyên
( Duyên xuân gái mỏ)
Duyên dáng lại còn hát hay nên các cô làm cho bao chàng thợ lém lỉnh bỗng nhiên “quýnh quáng” bởi tiếng
cười, giọng ca, ánh mắt “lem lém dao cau sắc” có sức “khoan sâu hơn hộ chiếu”:
Liền chị nhà sàng thả duyên qua gió
Lò chợ chiều giòn thơm mùi
quan họ
Lóng lánh mắt ai lúng liếng
gương than
( Nghe quan họ ở nhà sàng)
Cặp mắt lúng liếng đó với hàng mi xanh rợp đã làm cho bao đôi
anh chị nên vợ, nên chồng. Cái gia đình thợ mỏ nhỏ bé với cuộc giao ca rất ngộ,
rất vui, rất Mỏ:
Anh
về ca ba
Em vào
ca một
Dúi
tay xoong bột:
“Anh cho con ăn”
Nhấp
nháy vành khăn
Nét
cười tinh nghịch:
“ Chàng ơi nhớ giặt
Tã lót cho con”
(
Giao ca)
Thơ của Nguyễn Đình Thái là thơ của thợ. Không chỉ có tự hào, ngợi ca, mà thơ còn nói những vất vả, lo
toan của người làm than, nghề làm than. Thơ là tâm tư, tình cảm của riêng anh,
nhưng cũng là của những người thợ bạn anh, cùng làm Mỏ với anh. Cuộc sống của
gia đình thợ khác cuộc sống bình thường
của bao gia đình. Cùng một mái nhà, nhưng
khác công việc nên “ Bữa cơm chiều cha
con mới gặp nhau” ( Bữa cơm chiều ở nhà thợ mỏ). Một gia đình thợ lại phải đợi cả tuần lễ mới có cuộc sum họp
đủ đầy “Cả một tuần nhà ta mới gặp nhau”
( Chuyện nhà thợ mỏ). Trong khoảng cách của một người ở dưới âm 300 mét với người
trên mặt đất, khi lãng mạn thì tưởng tượng “Dài
chừng một hơi thở của em”. Nhưng người vợ thợ lò luôn phấp phỏng lo lắng, đặc biệt nhưng
khi mưa tháng Bảy, “mưa lút trời”,
“mưa lún trời”, “mưa nứt trời” thì cả mỏ lo âu, những người
phụ nữ càng lo âu, thấp thỏm:
Đêm chờ chồng
Kẹt cửa ca ba
Ngực chị rung
Theo nhịp búa khoan
( Có
một ca ba sau cánh cửa)
Câu thơ gợi nhớ đoạn
văn của nữ nhà văn Vũ Thảo Ngọc trong tiểu thuyết “Ánh đèn lò” : “Vợ thợ lò chờ chồng đi làm về như vợ phi
công chờ chồng sau mỗi chuyến bay”.
Rành công việc của người thợ, cảm
thông sâu sắc với nỗi vất vả của người thợ, tác giả đã có những phản biện, góp ý
chân tình về “cái búa chém” trong cụm tượng đài thợ mỏ ( Cán búa và tượng đài),
và nhất là những con số thống kê các chỉ số không công bố với năng suất khấu
than:
Người đàn bà
lăng lẽ
ôm bóng đêm ngồi nghĩ
một mình ca ba đo thổn thức
Chị cộng thầm
những vết trầy
đá sắc
trên trán người thợ trẻ
Chị thống kê đầy đủ
những giọt mồ hôi đen đúa
trên
vuông vức ngực chồng
Chị nhẫn nại đếm cơn ho
cong mình xé phổi
( Phản biện của phép
đếm đo)
Và bụi than tuy được diễn tả hơi “bay bướm” một tí nhưng không khỏi làm cho
người ta suy nghĩ về sự vất vả của người thợ ( Dù so với trước, bụi đã giảm nhiều).
Và cũng là một kiến nghị với các nhà quản lí:
“Ngủ ca ba bụi đan
chen giấc nồng/ Bụi xuyên hạ ngả sang đông/ Bụi qua tầng vỉa bay vồng phố xa/ Bụi
theo chân thợ vào ca/ Tan tầm bay lả bay la xuống tầng” ( Màu than).
Kết cho bài viết về chủ đề vùng Mỏ
trong thơ Nguyễn Đình Thái, thiết tưởng không gì thích hợp hơn là dẫn lại
lời của anh Đoàn Kiển, một đồng nghiệp làm than am tường, yêu thích văn chương: “Thợ lò viết văn, làm thơ hay thì có nhiều, rất
nhiều nhưng giỏi tưởng tượng, giỏi ví von về cái nghề, cái nghiệp của mình […]
giỏi chắp cánh cho những con chữ, cho những từ thô ráp của nghề làm mỏ hầm lò
bay lên như Nguyễn Đình Thái thì thật là hiếm!” ( Thơ thợ mỏ viết về thợ mỏ).
Hà Nội, 27 tháng
Năm, 2017
Em cảm ơn Nhà văn Vũ Nho
Trả lờiXóaEm cảm ơn Nhà văn Vũ Nho
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã ghé trang!
Xóa