THƠ
VỚI KHÁNH THƠ
Đọc Thơ và một số gương mặt
thơ Việt Nam hiện đại
Nhà
xuất bản KHXH, 2005
Vũ Nho
Không rõ sự đặt tên của các cụ có một
dự cảm định hướng nào không, mà cô gái Lưu Khánh Thơ lại chọn Thơ làm đối tượng
nghiên cứu phê bình chủ yếu của đời mình. Bảo vệ luận văn Tiến sĩ đề tài thơ
tình Xuân Diệu; viết nghiên cứu, tiểu luận, phê bình về thơ Việt Nam hiện đại
trong tiến trình lịch sử của nó, phê bình các tác giả thơ nổi tiếng hoặc đang trên đường tìm tòi
khẳng định mình; viết về người thân thì cũng là ba nhà thơ tên tuổi. Nghiên
cứu, phê bình thơ là duyên nghiệp của Lưu Khánh Thơ và tập tiểu luận, phê bình "Thơ
và một số gương mặt thơ Việt nam hiện đại" có thể coi như thành quả
đầy đặn của duyên nghiệp ấy.
Lướt qua ba phần của cuốn sách, có thể
thấy tác giả nghiêng hẳn về nghiên cứu vấn đề, nghiên cứu, phê bình tác giả hơn
là nghiên cứu các tập thơ, các bài thơ cụ thể. Không kể bài viết về
khía cạnh cảm hứng nhân văn và những bài học lớn trong tập Nhật kí
trong tù, hai bài viết về hai trường ca của Anh Ngọc và Thi Hoàng, người
viết chỉ có ba lần phê bình ba tập thơ của Lê Thành Nghị, Hà Minh Đức và Ý Nhi.
Phải chăng việc nghiên cứu của nghiên cứu viên ở Viện Văn học thường xuyên bao
quát những vấn đề, những tác giả trong công trình chung của Viện đã chi phối xu
hướng nghề nghiệp ấy?
Mặc dù chia làm ba phần, nhưng cuốn
tiểu luận, phê bình gồm các bài viết chính là nghiên cứu và phê bình. Có điều
Lưu Khánh Thơ là người luôn luôn dung hoà cả hai lối nghiên cứu và phê bình
trong mỗi baì viết. Khi trình bày những vấn đề khái quát, những thành tựu
nghiên cứu, người viết cũng đã làm nhiệm vụ phê bình. Và ngược lại, khi phê
bình tác giả về một tập thơ hay một đời thơ, người viết cũng nhìn nhận bằng con
mắt nghiên cứu, khái quát. Đây là một ưu điểm cơ bản của ngòi bút Lưu Khánh
Thơ. Không hàn lâm khô khan nhưng cũng không trực cảm, tản mạn; vừa có sự chắc
chắn, chặt chẽ chừng mực của nghiên cứu,
lại vừa có sự tươi tắn, nhẹ nhõm, khoáng hoạt của phê bình. Tất nhiên, không
phải bài viết nào trong tập cũng đạt được điều này.
Thành tựu của người làm nghiên cứu văn
học phụ thuộc rất nhiều vào tầm bao quát tư liệu, nhất là đối với văn học cổ.
Việc tập hợp khá đầy đủ tư liệu đã có thể đảm bảo gần một nửa của sự thành
công. Đôi khi sự phát hiện các tư liệu mới có thể làm đảo lộn kết luận, làm
thay đổi cả kết quả nghiên cứu. Mặt khác, thành tựu ấy còn phụ thuộc vào năng
lực của người nghiên cứu. Đó là khả năng phát hiện vấn đề, đề xuất quan niệm
mới trên cơ sở những tư liệu cũ. Đó còn là khả năng khái quát, tìm ra những quy
luật mới, những kết luận mới trên cơ sở những kết quả của quá trình nghiên cứu
trước đó.
Việc nghiên cứu thơ Việt Nam hiện đại
không trông mong nhiều vào những phát hiện tư liệu mới, mà chủ yếu là tính chất
hệ thống của tư liệu. Về điều này, Lưu Khánh Thơ là cán bộ của Viện Văn học,
lại ở Hà Nội, nên chị có nhiều ưu thế. Những tư liêu chị căn cứ và dẫn ra khá phong phú, hệ thống. Một
số vấn đề tác giả quan tâm là những vấn đề quan yếu đối với lịch sử thơ ca Việt
Nam hiện đại : Thơ văn cách mạng trước năm 1945 qua những người mở đường;
Vấn đề mới- cũ trong thơ Việt Nam trước năm 1945 nhìn từ phong trào Thơ mới;
Thơ trong bước ngoặt lịch sử tháng Tám 1945; Thơ những năm chống Pháp qua phê
bình văn học; Thơ và phê bình thơ... Tác giả không phải là người đầu tiên
đặt ra và kiến giải những những vấn đề này, nhưng chị đã góp phần quan trọng
làm sáng rõ, minh định khá rành mạch những điều còn thiếu rõ ràng hay chưa có
kết luận thoả đáng. Chẳng hạn, khi bàn về
thơ mới và thơ cũ, Khánh Thơ đã dứt khoát chỉ ra thơ cổ điển bị bài bác
khi ấy không phải là thơ cũ; thơ ca Cách mạng cũng không phải là thơ cũ; thơ cũ
là thơ tuân thủ nghiêm ngặt các luật lệ
, bị bó buộc đến mất tự nhiên và sinh thú và khi cuộc đấu tranh đã kết thúc thì
chẳng còn phân biệt mới hay cũ nữa. Đồng thời nhà nghiên cứu cũng mạnh dạn
chứng minh rằng" Nếu thơ mới vẫn theo lối thất ngôn, và vẫn chưa dứt bỏ
mỗi khổ thơ bốn câu theo lối tứ tuyệt thì thứ thơ gọi là tứ tuyệt đó chẳng còn
đâu nữa cái trật tự đề, thực, luận,
kết...", " ở đó không chỉ hồn mà cả xác của thơ cũ đã hoá thân
thành thơ mới" (tr.40).
Với độ lùi cần thiết của thời gian,
Lưu Khánh Thơ đã thấy được và chỉ ra hạn chế của việc phê bình thơ đối với thơ
kháng chiến của hai cây bút phê bình, tổng kết sớm thơ kháng chiến là Xuân Diệu
và Hoài Thanh. Việc truy tìm cái buồn, phê phán "gay gắt và phi lí"
của Hoài Thanh, việc cả hai ông - Xuân Diệu và Hoài Thanh- hiểu đại chúng hoá một
cách giản lược do áp lực của thời đại "nhất trí ở một tiêu chí đánh giá
về thơ hay - đó phải là thơ của đại chúng, hoặc được như thơ của đại chúng"
(tr. 78) rõ ràng là một hạn chế. Lưu Khánh Thơ đã coi đây là "nhìn nhận
và đánh giá nhất thời theo những tiêu chí chủ quan trước sức ép của thời cuộc"
sẽ được điều chỉnh và cần điều chỉnh.
Nhận xét về một số cây bút nữ xuất
hiện trong thời kì đổi mới, tác giả tỏ ra điềm tĩnh và có những đánh giá khá
đạt lí, thấu tình. Đối với một số những tiểu luận khác, người viết đã chạm vào
vấn đề, có chỗ đi sâu, có chỗ mới chỉ gợi ra đôi nét nhận xét ban đầu. Nhưng có
một điểm dễ nhận thấy là tác giả viết lí luận, khảo cứu bằng một ngòi bút giàu
nữ tính, điềm đạm và chừng mực.
" Phê bình thơ bây giờ thật
khó. Khối lượng hàng trăm tập thơ xuất bản trong một năm quả tình là một sự
thách đố đối với công việc của nhà phê bình"(tr. 135). Lưu Khánh Thơ
đã thốt lên như vậy trong một bài viết. Thế mà rồi chị vẫn dũng cảm lao vào
thách đố đó để thử phác thảo diện mạo
" Thơ năm 1992" và " Diện mạo thơ năm 1998". Bài viết như
là một thăm dò, thử nghiệm của người nghiên cứu, phê bình. Nó cho thấy cái khó
của việc theo dõi, tổng kết cũng như nhận định, đánh giá, dù chỉ ở mức bước
đầu. Lấy một năm bội thu thơ, một năm
"lạm phát" thơ làm đối tượng xem xét, người viết đã cố gắng
phác thảo diện mạo, xác định một số
khuynh hướng tìm tòi, phát triển, nêu lên cố gắng đổi mới của một số tên tuổi.
Tuy kết quả chưa được như mong đợi nhưng cái công sức bỏ ra để làm công việc đó
có chỗ cũng chẳng kém gì tác giả Thi nhân Việt Nam khi tổng kết phong
trào thơ mới. Lưu Khánh Thơ đã thử
cắm mốc của thơ nước nhà năm 1992 và năm
1998 trên chặng đường tìm tòi, đổi mới và phát triển của nó.
Như trên đã nói, Lưu Khánh Thơ lấy
việc phê bình tác giả, phê bình đời thơ làm hướng viết chính của mình. Tinh
thần nghiên cứu hệ thống, khái quát của một nghiên cứu viên là một cái thuận
lớn cho công việc này. Tác giả được chị nghiên cứu, phê bình, có người nổi
tiếng, có người chưa nổi tiếng, song có tên tuổi ở mức độ khác nhau. Nhưng tất
cả đều được người viết trân trọng, chắt chiu. Vừa theo phương châm của Hoài
Thanh lấy hồn ta để hiểu hồn người, vừa theo phương châm mới (của riêng
chị) đọc hồn người để thêm hiểu hồn
ta. Ngòi bút phê bình của Khánh Thơ đem đến cho bạn đọc khá nhiều những
điều thú vị. Chẳng hạn, đánh giá về thơ Vi Thuỳ Linh
(tr.
110- 112). Đánh giá tập "Riêng
chung" của Xuân Diệu (tr.183-184). Sau khi đã khẳng định cố gắng kiên định
ý thức và tư tưởng mới, để cho cái mới được và sớm đến với thơ, chị viết :"Tựa đề Riêng chung hình
như nghiêng về phía nhà thơ phấn đấu cho cái chung chiến thắng cái riêng, chứ
không phải là sự hoà hợp riêng chung". Có thể nêu vài ví dụ nữa. Khi viết
về Xuân Quỳnh và sự chân thật trong tình yêu (tr. 230). Khi viết về bài thơ Ý
Nhi tặng bạn thơ cùng thế hệ tài hoa bạc mệnh "Chị thương cảm, xót xa
với bạn nhưng cũng là để giãi bày, chia sẻ những đa đoan, lận đận của riêng
mình" (tr.320)...
Một điều dễ cảm nhận là bên cạnh cái
được của những thi nhân mà chị nghiên
cứu, phê bình thường được đánh giá đúng mức, không thái quá nhưng cũng không
bất cập, chúng ta còn thấy Lưu Khánh Thơ là người cởi mở, thẳng thắn. Nói thẳng
nhược điểm, yếu kém của đối tượng là một trong những điều khó khăn nhất cuả
người phê bình. Chẳng thế mà có nhà phê bình tiền bối đã né tránh bằng cách chỉ
tìm cái tốt để khen ngợi, để biểu dương và không chê cái dở, không bao giờ chê
cái dở vì cái dở không đại diện cho cái gì hết. Nhưng Lưu Khánh Thơ thì không
thế. Chị sẵn sàng khen, nhưng cũng dám chê. Khi thì chê khéo Xuân Diệu, Hoài
Thanh bằng hai từ "đáng tiếc". Nhiều khi chê một cách thẳng thắn, không phải rào đón,
hay bóng gió vòng vo. Đó là các trường hợp ở trang 67, trang 279, trang 289,
trang 321. Sự thẳng thắn này có thể coi là sự sòng phẳng, chân thành của cây
bút có bản lĩnh.
Ấn tượng mạnh và nhiều cảm tình là
những bài viết về người thân của Lưu Khánh Thơ. Có lẽ vì ở đây, sự hiểu biết tỉ
mỉ đời thường, tình yêu thương trân trọng, sự gắn bó sâu sắc, thiêng liêng với
người thân đã làm cho ngòi bút trở nên thăng hoa, uyển chuyển và lắng đọng.
Không có ranh giới giữa nghiên cứu với phê bình, không có khoảng cách giữa
người viết và đối tượng mà chỉ có tình. Tình con với cha, tình em gái với anh
trai, tình em với chị dâu. Cái tình ấy đã làm cho những trang viết đầy ma lực.
Dĩ nhiên, một qúa trình hai mươi lăm
năm làm việc, chất lượng bài viết không đều là không tránh khỏi. Có những chỗ
trùng lặp. Có những chỗ dàn trải. Có những chỗ nhiều lời, ít ý. Thế nhưng Thơ
và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại là một tập sách đáng trân trọng
của một cây bút nữ bền bỉ với thơ ca. Để kết lại, xin mượn câu Lưu Khánh Thơ
viết về các nhà thơ nữ: " Hi vọng rằng sẽ còn những cơ hội khác để được
đọc, được xem xét, tìm hiểu và yêu mến (...) người không chỉ làm đẹp cho đời
bằng chính thiên chức, bổn phận của mình mà còn bằng cả tiếng nói thơ ca riêng
có" (tr. 106).
Hà
Nội, 30/9/2005
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét