Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

Một thuở ao làng- tản văn của NGUYỄN HIẾU





MỘT THỦA AO LÀNG
(Tản văn)
NGUYỄN HIẾU

Hồi bố tôi còn trên chiến khu, hai mẹ con tôi tá túc ở nhà
ông ngoại. Trước nhà ông ngoại tôi là một khu vườn mênh mông. Một phần
vì nhà neo người, ông ngoại mất độ năm, sáu năm về trước, đâu khoảng
năm Ngọ, năm Mùi gì đấy. Bác cả tôi sinh con một bề, hai chị cùng xêm
xêm tuổi tôi, lít nhít lên năm, lên sáu. Nhà hơn mẫu ruộng, cả hai bác
đều không phải hạng lực điền gì nên kham từng nấy ruộng đã bở hơi tai.
Em gái là mẹ tôi thì một mình bươn chải quanh năm toòng teeng đôi
quang gánh. Một bên thúng là tôi, bên kia là rượu, thuốc lào bán vặt
cho dân trong làng và mấy làng bên. Chiều nào về cũng thấy mẹ tôi bóp
chân. Các em trai là hai cậu kế liền mẹ tôi thì lăm lăm bay nhảy, nên
tiếng là vườn nhà nhưng chẳng mấy khi dính hơi tay người chăm bón.
Thành thử cây mọc um tùm, chuối là chủ yếu cùng xoan, nhãn. Khu vườn
như bị quên lãng, thi thoảng dăm bữa, nửa tháng nghe tiếng chào mào
loét choét mới hay trong vườn có buồng chuối chín cây. Kề liền trước
mặt vườn là một cái ao không hiểu sao lại gọi là ao Binh? Mấy vị cao
niên ở làng bảo cái ao đó do làng đào ra để dùng vào việc công của
làng. Có người lại bảo ao đó do quân Cờ đen đào ra để dành cho quân
lính tắm táp như cầu Binh liền với ao Sen là nơi quân Cờ đen tập trận.

Nếu tách ao Binh ra một mình thì ao đó cũng là ao to nhất nhì làng.
Góc ao phía vườn nhà tôi là cây vối lưu niên. Mẹ tôi bán chè mạn nên
bác cả tôi buổi sáng sau bữa sớm để kịp ra đồng thường uống trà “vì
cái giống trà làm cho người tỉnh táo, hút điếu thuốc cũng đượm giọng
hơn”. Thành thử, lá vối chỉ dành cho bác gái tôi thỉnh thoảng ra hái
mang về ủ khô và cho dân làng. Quả vối ngọt lừ rút lại cũng chỉ dành
đám chào mào, và rụng xuống ao. Ba chị em tôi thích quả vối lắm nhưng
cũng đành chịu vì vườn thì rậm rạp, ao Binh thì nghe hai bác và mẹ tôi
bảo dưới ao nhiều con nam (ma) lắm. Đứa nào cứ ra nghịch bên bờ ao,
hay cầu ao thì nam rút chân. Phía giáp đồng đối diện với vườn nhà tôi
là một luỹ tre um tùm, dưới gốc tre có một cái hủm không rõ do chuột
đào bới, hay nứơc ao ăn vào thành một cái hố sâu hoắm. Mẹ tôi, bác
gái bảo đó là hang của con nam. Cậu tôi tủm tỉm cười, nói nhỏ với tôi:
đấy là hang của một cặp vợ chồng chim cuốc. Tôi tin cậu tôi hơn vì vào
những chiều hè khi ngày chỉ còn sót lại vài tia nắng yếu ớt hiện rõ
trên những rải quạt mỏng mảnh phía đầu trời thì vọng từ bên kia ao,
tiếng cặp vợ chồng cuốc lại gióng giả vang lên không rõ để gọi hè, gọi
con hay là báo hiệu đêm tối sắp đến? Thình thoảng đi theo cậu ra bờ
ao, tôi cũng nhìn thấy mấy con cuốc con đen sì, lon ton chạy theo cuốc
mẹ rồi lủi mất hút. Đúng là cuốc lủi! Thấy tôi trố mắt, vẻ thích thú
nhìn theo con cuốc, cậu tôi bảo:” để hôm nào cậu bắt cho con”. Thế là
vào một buổi chạng vạng chiều, cậu lần sang bờ đối diện, rồi chui vào
bụi tre. Nấp kín xong, cậu tôi bắt chứơc tiếng cuốc gọi con .Tiếng
“luốc, cuốc cuốc” của cậu tôi dìu dặt vang lên trên mặt ao sao mà tha
thiết, quyến rũ làm vậy. Buổi tối, khi mang đôi cuốc con về thả vào
lồng cho tôi chơi,cậu nói:”nghe tiếng cậu đám cuốc con lầm tiếng mẹ
gọi từ đâu đến cứ nhẩy lên vai cậu chờ mẹ. Mà này, lúc nào con chơi
chá , để cậu mang trả vào tổ cho mẹ nó khỏi tội”….
Kề liền với ao Binh là ao Sen. Hai ao nối với nhau bằng một
cái đập nhỏ đã lở đi nhiều nên hai ao gần như dính vào nhau. Ao Sen là
ao to nhất làng tôi liền với dốc Thuỵ chạy giữa luỹ trẻ rậm rì và cây
sung cổ thụ để làm nên một góc làng hoang liêu, cổ tích khiến đám trẻ
chúng tôi ngay cả giữa trưa hè cũng không dám một mình đi qua. Những
người có tiếng bôn ba ở làng còn bảo ao Sen có lẽ cũng thuộc loại to
nhất tổng, có khi cả nhất phủ Hoài Đức chứ không bỡn! Khi tôi về ở nhà
ông ngoại thì ao Sen đã không còn cây, hay bông sen nào mà ven ao chỉ
có những súng bèo của mấy nhà quanh ao nuôi lợn. Vậy mà không hiểu sao
ao này lại mang tên loài hoa đẹp và thanh khiết nhất các loài hoa xứ
này. Tôi không rõ ao Sen có to nhất tổng, nhất phủ hay không nhưng
trong mắt tôi hồi bé, ao Sen mênh mông bát ngát lắm. Đứng từ đầu ao
nhìn vào những hôm cuội trời chớm thu, sương mờ giăng giăng mặt ao thì
khó mà nhìn rõ người, trâu bò đi cuối ao. Còn vào hôm đẹp trời, nơi
cuối ao giáp với mạn cầu Binh, thấy người chỉ nhỏ bằng đầu đũa lao
xao. Còn bề rộng của ao Sen thì…Hồi đó cậu tôi đang vào độ tuổi đôi
mươi, bắp tay, bắp chân cuồn cuộn, ngực nở từng tảng (Cậu từng giật
giải nhất trong giải vật hội Chèm có mời cả các đô ở làng Qùynh Đôi
lên), đã từng cõng tôi trên vai bơi qua ao Sen. Cậu tôi đang sung sức
là thế mà mẹ tôi làm xong hai con gà trong ngày giỗ ông ngoại mới bơi
sang được bờ bên kia. Ao Binh ngoài mấy chiếc cầu ao bằng tre ghép hay
ván thôi thì làng còn xây một cầu ao bằng gạch cho dân giặt rũ và làm
gà, làm vịt. Còn ao Sen thì hồi bé có lần tôi đếm, quanh ao có đến năm
cái cầu ao bằng gạch do làng xây. Lũ trẻ chúng tôi vào vụ hè có dễ
ngày nào chỉ ít cũng phải hai lần xuống ao ì ùm. Buổi trưa đi bắt cua
về tráng giỏ cua sạch bùn, tắm táp. Buổi chiều đá bóng bưởi chán chê
trên bãi cỏ cạnh nhà cụ Đội Kèn. (Hồi bé và ngay đến bây giờ xin hồn
linh cụ thứ phép, tôi cũng như lũ bạn cùng trang lứa của tôi không
biết tên chính cụ là gì chỉ biết cụ đã từng lên chức đội trong đội
thổi kèn của quân Pháp. Cụ từng sang tận Ba Lê để chỉ huy đội kèn rặt
Pháp trong Đại lễ cát tó duy ê (14/7 quốc khánh Pháp). Mỗi bận hứng
lên, cụ lại mang chiếc kèn đồng có buộc dải lụa đỏ bạc mầu thổi róng
lên mấy khúc la vầy (nhạc duyệt binh Pháp) mở đầu cho trận bóng bưởi
của chúng tôi. Đá chán chê, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, chúng tôi lao ngay
xuống ao Sen. Mặt ao nóng như nứơc gần sôi, vậy mà càng lặn sâu nứơc
càng mát rượi…Bây giờ nhớ lại mới thấy lạ. Ao làng tôi quanh bờ cái
nào cũng xum xuê bóng của những luỹ tre, rặng ổi, cây nhãn , cây vối
lưu niên .. ao nào cũng mang vẻ âm u, trừ tịch khiến lũ trẻ chúng tôi
tin về những con nam dưới ao rút chân là thế. Còn quanh ao Sen chỉ có
bờ cỏ, những gò, đồi bao quanh khiến ao càng mênh mông, khoáng đãng.
Sự khoáng đãng, minh bạch đó làm sao có chỗ cho những con nam thâm
hiểm trú ngụ mà kéo chân trẻ con…?!
Làng tôi thủa trứơc nhiều ao lắm. Ngoài ao Sen, ao Binh, rồi
ao Đình, ao Chùa được xem là ao làng còn trong làng cứ vài nhà lại
quần tụ quanh một chiếc ao. Các cụ bảo ngày xưa mỗi bận làm nhà, ngưòi
ta vật thổ lấy đất làm nền, nung gạch, nung ngói. Hố đấu mưa xuống cho
nứơc, trồng quanh bờ búi tre, cây nhãn, cây ổi, cây roi, cây vối ..
thế là thành ao. Thả bèo nuôi lợn. Ăn cơm xong ra cầu ao rửa bát.
Chiều chiều con trai nhảy xuống, hò hét, bơi lặn. Con gái đánh bóng
quần phồng lên, nổi lềnh bềnh trên mặt nứơc, chòng nhau chí choé. Mưa
xuống, những con rãnh, lạch nhỏ trong làng chảy thông ao nọ sang ao
kia, đám cá rô, cá riếc, cá trê động nứơc rạch lên cho đám con trai
bắt cá rạch. Giáp tết, sau đợt tát ao bắt cá, lại thả nứơc về ao để
người mổ lợn, mổ gà, rửa lá dong, lá chuối, đãi gạo, đãi đỗ chuẩn bị
một cái tết sum vầy sau một năm vất vả .. Tôi yêu người con gái thon
thả, má lúm đồng tiền một thời nay đã là bà nội phục phịch của đám
cháu nội ngầy ngà cũng bởi quả doi rơi xuống mặt ao lấm tấm bèo dâu
nhà ông ngoại (tức nhà cụ Phán Vân, con cụ Tú dạy học nổi tiếng khắp
vùng Chèm - Vẽ… phủ Hoài). Luỹ tre bờ ao nhà cậu có một đôi cuốc từ
đồng vào làm tổ. Đã là gã thanh niên biết làm dáng trước gái làng mà
tiếng cuốc ấy vẫn gợi đến nôn nao một thời bồng bềnh trên vai cậu qua
ao …
Về làng bây giờ, cứ thấy buồn buồn. Một nỗi buồn mang mang,
không định rõ. Cật vấn mãi trong độ sâu của tâm khảm mình cứ nghĩ hay
đó là sự trầm mặc của kẻ đã sống lâu trên mặt đất, dưới gầm trời chao
chát này, ít nhiều nhận ra sự đời đa đoan. Cái chênh chao muôn mặt của
lẽ sống. Nghĩ mãi, nghĩ mãi mới hay nỗi buồn mang mang ấy là sự đổi
thay của một căn làng tôi đã từng sống bì bũm với những ao Sen, ao
Binh, ao nhà cô láng giềng, ao nhà người vợ bèo tấm, tao khang. Chao!
làng tôi một thời nhiều ao thế! Nứơc ao làng tắm mát cả một tuổi thơ
đâu chỉ riêng tôi với những mộng mơ, bần thần những buổi vàng quạch
ráng chiều. Tiếng quả vối chín rụng trầm xốp trên mặt ao bèo. Nàng
ngồi xây lưng về phía ta bên cầu ao chênh vênh rửa bát, đãi đỗ. Má lúm
đồng tiền đỏ màu doi chớm chín .. Con rô rạch theo lạch nứơc, những
con nam lấp ló trong nỗi sợ ban chiều…Tất cả biến hết bởi mặt ao giờ
hoang hoang nhưng ngấn vòng loang loang cá đớp đã không còn và vĩnh
viễn chôn dưới những nhà ống lênh khênh lợp tôn, những tường nhà bê
tông trơ lỳ như mặt ngưòi trơ tráo vỡ hụi, quỵt nợ. Ao Binh, cái ao
róng rả tiếng mẹ con cuốc ra rả gọi hè, tiếng giả cuốc của cậu tôi
giờ là toà nhà to vật, thô thiển, chói loà bình nứơc tôn trên nóc nhà.
Ngay cả ao Sen mênh mông đến gần 4 mẫu, giờ teo tóp khuôn lại bởi
những nhà ống lấn chiếm xây lên, tệ hại hơn, chềnh ềnh ngay giữa ao,
kề ngay bên mỏm gò đất có bụi tầm gửi vàng rực hồi cậu cõng tôi bơi
qua. Cậu tôi đã ngoại tám mươi, thều thào bảo: Ngày xưa, chỉ cần phạm
một chút đất công, ao làng thì không biết có sống nổi ở làng không.
Thời nay, dân chủ. Kẻ trơ tráo, kẻ có tiền là được lợi! Cũng còn may,
làng có vị chủ tịch kém con trai thứ nhà tôi 1 tuổi, có bằng cử nhân
văn hoá, từng đọc tiểu thuyết Vết xoáy trước ngực làng của tôi, kể về
làng Chèm cách đây non thế kỉ, chắc tiếc cái ao to nhất làng, nên xin
huyện cho làng dự án khoanh ao. Chao ôi! ao Sen mênh mông, hoang dã
một thời giờ bị lấn chiếm nay chỉ còn tí tẹo lại thêm tường hoa bao
quanh như một bể cá cảnh của gã trọc phú bỏ quên bên góc làng đang bê
tông hoá. Cái ao đẹp như trong tranh Nguyễn Phan Chánh đằng bố vợ tôi
cũng lấp lại để chia đất cho mấy cậu em vợ. Chiếc ao ngay trứơc luỹ
tre từng lềnh bềnh những trang bản thảo của tôi khi tôi lao xe đạp
xuống buổi dọn nhà, nay đã lấp bằng thành những dãy nhà khu chợ kiên
cố nhưng luôn là cảnh chợ chiều đìu hiu, quạnh quẽ…. Có ma nào vào
chốn ấy mà bán, mà mua!
Trời! Thế là ao làng tôi đã mất rồi! Chớm mưa, ngưòi làng Chèm
bì bõm lội trên đường làng ram ráp xi măng vì không còn nơi cho nứơc
chảy xuống. Những đứa trẻ làng sẽ chẳng bao giờ được thoả thích bơi
lội trong nứơc ao mát lạnh những chiều hè, không còn được bắt cá rạch
từ ao lên ngày mưa. Con gái không còn được làm duyên khi rửa chân, rửa
bát, đãi đỗ bên cầu ao cho trai làng ngắm. Ao mất hết rồi! Vậy là
những con nam huyền bí mãi mãi không còn trong lời doạ ngọt ngào của
mẹ giữa tiếng võng đưa kẽo kẹt buổi trưa hè nữa rồi! Tiếc thay!!!…
Quỳnh Mai 19/11 đầu tháng 10 Nhâm Thìn; ngày cuội trời. NH

2 nhận xét: