Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

HÕM SÂU - MỘT VỈA NGỜI KỶ NIỆM LONG LANH (Phần 1)





Triệu Lam Châu

HÕM SÂU - MỘT VỈA NGỜI KỶ NIỆM LONG LANH (Phần 1)
(Tuỳ bút)

Lời tác giả: Ngày 11/11/2016 các thầy Chu Mạnh Vân (Nhà giáo ưu tú), Đỗ Huy Quang (Phó giáo sư, tiến sĩ)…và những thầy cô khác nữa, nguyên là giáo viên Trường chuyên Cao Bằng hồi xưa… cùng các học sinh cũ của Trường, hiện đang sống ở Hà Nội và vùng lân cận – đã theo xe của Trường chuyên từ Cao Bằng xuống đón lên dự lễ kỷ niệm năm mươi năm thành lập Trường (1966 – 2016).
Ngày 12/11/2016 Uỷ ban nhân dân tình Cao Bằng cùng Trường chuyên long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm năm mươi năm thành lập trường. Triệu Lam Châu là học sinh khoá 3 (1968 – 1970) của Trường chuyên tỉnh Cao Bằng.
Nhân dịp này Triệu Lam Châu xin đăng Tuỳ bút này lên Sân trời cho bạn bè gần xa quan tâm cùng đọc nhé!
Tuy Hoà, sáng 12/11/2016
Triệu Lam Châu

   Không hiểu sao tôi cứ lẩn thẩn nghĩ rằng: Hõm sâu như là một chiếc khăn mù soa tuyệt đẹp của Bà mẹ Hoa (Đấng sáng tạo của muôn loài – trong tâm thức  người Tày) từ trên Mường trời bát ngát và linh thiêng thả xuống trần gian này. Lúc đầu chiếc khăn trời nhiệm màu ấy, long lanh một thứ ảnh sáng ảo huyền của Mường trời, cứ bồng bềnh chao liệng tháng ngày… Thế rồi vào một buổi chiều thu tuyệt đẹp và trong trẻo vô cùng, chiếc khăn thần kỳ ấy sẽ sàng đậu xuống phía sau đồi Khau Gạm và trải đều khắp thung lũng nhỏ một màu xanh quyến rũ của ngàn cây xao động lòng người từ thuở ấy đến hôm nay.
 Có lẽ đúng như vậy chăng, mà nguồn suối phát nguyên từ thung lũng nhỏ nhiệm màu ấy, trong trẻo và ngọt ngào vô cùng. Nó đã từng tưới mát cho những thửa ruộng bậc thang trong lũng ấy, để có những mùa vàng bội thu cho dân chúng. Nguồn suối trong lành vĩnh cửu ấy cũng chính là một cái nguồn bí ẩn (có thể gọi như vậy) nhiệm màu nuôi sống tâm hồn bao lớp người ở nơi đó từ thuở xa xưa đến hôm nay.
- 1 -

Thế rồi mùa thu năm 1967 thung lũng chứa chan sắc màu huyền thoại ở sau đồi Khau Gạm ấy, đột nhiên được mang một cái tên nghe có vẻ hoang sơ mà bình dị là: Hõm sâu. Đấy là vào tháng 9 năm 1967 Lãnh đạo tỉnh Cao Bằng ban quyết định Thành lập Trường phổ thông cấp 3 Đặc Biệt Cao Bằng, đặt trong Hõm sâu (Ở sau đồi Khau Gạm, xã Đức Long, Huyện Hoà An, Cao Bằng).
   Ơn trời, thực ra là nhờ ơn Đảng và Nhà nước ta đã có tầm nhìn chiến lược đi trước thời đại hàng nửa thế kỷ, đã thành lập loại Trường Đặc Biệt như vậy – mà                                                    
chúng tôi, những học trò thơ ngây buổi ấy, bây giờ mới được trưởng thành và có được sự cống hiến đáng tự hào cho đất nước như hôm nay.
   Và trong hình dung sáng láng của tôi, thì mỗi thành viên (gồm cả thầy và trò) của mái trường Đặc Biệt trong Hõm sâu thuở ấy – là những thực thể long lanh của Bà mẹ Hoa phái xuống từ Mường trời cao thẳm. Chính vì vậy một Vầng trong trẻo đến lạ kỳ bao trùm khắp cả Hõm sâu làm cho tâm hồn mỗi thành viên lúc nào cũng tinh khiết, thăng hoa và toả sáng những nét ngời tận cùng tuyệt đẹp. Đó là tình thầy trò trong sáng và  ấm cúng như ngọn lửa nồng. Đó là sự hăng say vô bờ bến của cả thầy và trò phấn đấu chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học của toàn nhân loại. Đó là hoài bão của tuổi trẻ vụt phóng lên như con tàu vũ trụ đầy huyền thoại mà anh hùng Gagarin, công dân Nga Xô Viết, nhà du hành vũ trụ đầu tiên của loài người, bay vào không gian bao la ngày 12 tháng 4 năm 1961…
    Hõm sâu, chính là một bệ phóng bình dị (và như thể đơn sơ nũa), nhưng sao mà diệu huyền đến vậy. Tính đến thời điểm này (năm 2012) tất cả học trò của                                                   
Hõm sâu đều tốt nghiệp Đại học trong và ngoài nước. Rất nhiều người đã thành phó giáo sư, tiến sĩ và là những cán bộ giàu năng lực ở các Bộ ngành trên trung ương, ở các tỉnh, các viện nghiên cứu và các trường đại học… Thật là đáng tự hào, những đứa con của Bà mẹ Hoa linh thiêng…
    Tháng 6 năm 1976 đang là sinh viên học kỳ cuối cùng của năm học cuối cùng ở Trường Đại học Mỏ Lêningát (Xanh Pêtécbua) của nước Nga Xô Viết – tôi có được xem một bộ phim thật là cảm động, mang tên “Về thăm trường cũ”.
- 2-

 Dạo ấy tôi đang làm đồ án để chuẩn bị bảo vệ tốt nghiệp vào đầu tháng 7 năm 1976. Vì vậy việc sắp xếp thời gian cá nhân cho việc học hành và giải trí, là do mình tự quyết định. Xem xong bộ phim kia, lòng tôi cứ bâng khuâng xao động hàng tuần liền. Từ nhỏ tôi vốn có tâm hồn nghệ sĩ rồi. Một sự kiện bên ngoài tác động vào lòng, thì nó cứ ảm ảnh tôi hoài. Không bâng khuâng xao động sao được, khi mà bộ phim ấy gợi lên trong lòng mình những kỷ niệm rực ngời của một thời đẹp đẽ vô cùng đã qua. Và bây giờ nó lặng lẽ nằm trong viện bảo tàng của ký ức, rồi khi gặp dịp thuận lợi thì nó lại bùng lên như lửa cháy khôn nguôi. Làm sao mà chịu nổi cơ chứ!
 Phim ấy kể về một ngày Hội trường ở một trường phổ thông nhỏ của nước Nga. Bạn đọc nên nhớ rằng, hồi năm 1976, Việt Nam ta mới bước ra khỏi cuộc chiến tranh chống xâm lược. Do đó cuộc sống còn muôn vàn khó khăn. Cho nên chưa có những cuộc hội ngộ của học trò cũ nhân dịp Hội trường phổ biến như bây giờ. Xem bộ phim kia trên đất Nga hồi ấy, tôi khao khát vô cùng. Ước gì… ta cũng sẽ có những cuộc hội ngộ bạn bè xa xưa nhân dịp Hội trường như thế. Có thể nói rằng tâm thế của những người trở về thăm trường xưa là rất hạnh phúc…
Hạnh phúc về về mặt tinh thần được gặp lại hình bóng của quá khứ cùng bạn bè thầy cô và muốn soi lại quá khứ của lòng mình. Đó là nỗi khát khao liền mạch, một sự liền mạch ẩn tàng trong  kỷ niệm tươi ngời của mỗi người, nó bao gồm quá khứ - Hiện tại và Tương lai. Đối với những người sống giàu nội tâm, thì sự liền mạch ấy – cũng chính là một nguồn sống cho hôm nay và mai sau. Đứt mạch với Quá khư, nhiều khi ta cảm thấy chơi vơi… như không phải chính mình nữa. Và tôi (Triệu Lam Châu) đã từng trải qua tâm trạng ấy. Do vậy chăng, mà tôi đã từng có vần thơ tâm huyết:

Có những chiều ta chẳng muốn làm gì
Cứ muốn trở lại thời thăm thẳm ấy….

 Đấy là những giờ phút của hiện tại, của ngày hôm nay, mà đã là hôm nay, thì về điều kiện sống, nhất là về vật chất thì hơn hẳn những ngày qua chứ.

- 3 -


Thế nhưng tại sao ta cứ muốn trở lại thời thăm thẳm ấy. Cái thời thăm thẳm xa xưa kia có điều gì mà quyến rũ vậy. Thực ra, ở đấy, theo mạch của bài thơ chỉ là:

Một Hõm sâu giữa rừng xanh ngày đánh giặc
Bốn bề núi chót vót hiên ngang…
                                                         
  Vậy là rõ rồi. Đó là kỷ niệm một thời gian khổ. Vì sao kỷ niệm bao giờ cũng có một ma lực không lồ như vậy? Điều này quả thật là khó lý giải đối với mỗi chúng ta!
 Và tôi linh cảm thấy rằng: Sự liền mạch tâm thế trong lòng của mỗi chúng ta là thiêng liêng, là sức mạnh vô hình – nó làm cho chúng ta yêu đời và hạnh phúc hơn biết mấy. Và đấy cũng chính là liều thuốc bổ dưỡng cho tâm hồn của mỗi chúng ta…
   Trong phim “Về thăm trường cũ” có nhiều cảnh tượng hết sức bồi hồi và cảm động. Học trò cũ trở về thăm trường, nay đang là một vị tướng với quân phục uy nghi đường bệ, một vị bộ trưởng lanh lợi thông minh, một cô bác sĩ vận bộ đồ trắng tinh và sáng như tấm lòng của cô, một nhà bác học uyên thâm tóc bạc trắng như sương, một cô ca sĩ với gương mặt ngời sáng nổi tiếng như cồn một thời mà nay bỗng mất tăm… tất cả đều quây quần bên cô giáo già (trông hồn hậu như một bà tiên trong cổ tích)… tất cả học trò bây giờ (dẫu trên đầu cũng đã có hai thứ tóc rồi)… lại bén lẽn đứng dậy trả lời những câu hỏi của cô giáo như ngày xưa… Thế rồi có chàng là học trò cũ (nay là vị tướng), chắc là quen tác phong quân nhân, đứng lên trả lời cô giáo già – cũng ngượng nghịu, nhưng vô tình có pha chút quan cách của ngày hôm nay… Bỗng có tiếng thốt lên từ cuối lớp, kèm theo là những tiếng cười ồ…
- Chưa được đâu… cậu phải trả lời lại đúng như ngày xưa không thuộc bài ấy cơ…
 Thế là tất cả lại đồng loạt cùng hoan hô. Vị tướng học trò ấy, mặt đỏ bừng, lại lí nhí trả lời cô giáo như thuở nào. Và trong khoé mắt của ông lúc này như có một giọt lệ ngân rưng rưng…
  Rồi cậu học trò uyên thâm (nay là nhà khoa học tóc trắng như bông), vẫn ngồi đúng vị trí ngày xưa trong lớp cũ, rụt rè đứng dậy thưa, khi cô giáo gọi đến tên mình lên bảng để kiểm tra bài cũ:
- 4 -

- Dạ, thưa cô, hôm qua bạn rủ em đi vào rừng dã ngoại, nên em chưa thuộc bài cũ ạ…
- Vậy thì cô đành cho em điểm một. Em nhớ chăm học cho giỏi để sau này xây dựng đất nước nhé… - Cô giáo của ngày xưa, nói vậy mà lòng cô cười, vì cô giáo già biết rằng người học trò này giờ đây là một nhà khoa học nổi tiếng…
 Cả lớp như có tiếng xuýt xoa khe khẽ, mà cảm động. Bởi vì hình bóng của ngày xưa như lần lượt hiện về - cái ngày xưa vô tư trong sáng ấy, theo tháng ngày như thể mờ phai vì cuộc đời bề bộn hôm nay. Có lẽ chính vì vậy họ cần phải trở về đây để nạp lại năng lượng của kỷ niệm vào cõi lòng mình.
   Cô  Xveta với gương mặt sáng ngời quyến rũ ngày nào, từng làm quản ca của lớp (nay là ca sĩ nổi tiếng, nhưng vài năm nay im hơi lặng tiếng) – giờ đây vẫn
lanh lẹn như xưa, dẫu trên mi mắt đã bắt đầu len lén xuất hiện những nếp nhăn
đây đó ẩn chìm. Mọi người yêu cầu cô ca sĩ Xveta hát cho cả lớp nghe bài ca xưa. Những tràng vỗ tay mời cô hát, vang động cả một góc trường nhỏ của thôn làng. Bạn bè vỗ tay hàng mấy lần yêu cầu… Sau đấy cô đành phải đứng dậy                                                         
nghẹn ngào mà thưa lại rằng:
- Em xin cảm ơn tấm lòng của cô và các bạn đối với em. Em xin thú thật rằng, không hiểu sao tự nhiên em bị mất giọng mấy năm nay rồi…
 Đang cuồng nhiệt, háo hức chờ nghe giọng ca xưa của Xveta, bỗng nhiên không khí cả lớp như chùng hẳn xuống, thật buồn, thật tội nghiệp cho cô ca sĩ tài năng một thời của công chúng và của lớp chúng ta…
    Thế rồi cô bác sĩ áo trắng chìa ra bức ảnh cũ của lớp. Cả đám xô đến xem. Vị bộ trưởng lịch lãm vừa chỉ vào mặt người trong ảnh vừa nói với cô:
- Đấy, hồi ấy tớ ngồi cạnh cậu đây… Mà sao ta lại không đến với nhau nhỉ? Để  bây giờ mỗi đứa một phương trời…
- Cái anh này…- Cô đấm nhẹ vào ngực ông và nói.
Cô giáo già vờ quay nhìn sang hướng khác và thầm nở một nụ cười…

- 5 -
  
 Sau khi xem bộ phim kia ở Lêningrát, lòng tôi cứ canh cánh một nỗi niềm mong ngóng trở về thăm trường cũ của mình ở Hõm sâu – một nơi đẹp nhiệm màu như một vuông khăn của Bà mẹ Hoa từ Mường trời thả xuống trần gian thuở nào…

    Thế là tháng 11 năm 1976, vào một chiều đông gió bấc thổi ào ào, một mình tôi đơn lẻ lại trèo lên đồi Khau Gạm để vào thăm lại Hõm sâu xưa. Lòng cứ ngỡ và cứ mong tất cả lại như xưa (cứ mong vậy thôi, vì tất cả đã thành kỷ niệm, đã định vị sâu trong ký ức rồi. Nhưng… cái chữ nhưng oái ăm này luôn luôn như                                                               ngáng trở lòng ta… Nhưng sự đời đâu phải thế…). Vừa bước vào địa phận chân đồi Khau Gạm thì đã gặp ngay một ngôi nhà gỗ nhỏ ở chân dốc. Hồi xưa nơi đây là một khu đất trống hoang vu. Lòng hụt hẫng bùi ngùi như mất một điều gì, một mình bước lên dốc… Hồi xưa có một lần lên dốc này, khi đã leo lên nửa chừng… thì bỗng nghe có tiếng gọi phía sau lưng ở dưới chân đồi vọng lên: “Anh Châu ơi, đợi em với!” – Mình ngoái lại nhìn xuống: À, hoá ra là Hoàng Thị Hùng, cô quản ca của lớp, tranh thủ chiều chủ nhật đi ra thị trấn Nước Hai gửi thư về nhà ở miền đông Cao Bằng. Còn tôi thì cũng tranh thủ về thăm nhà ở Nà Pẳng, Đức Long từ chiều thứ bẩy. Và chiều nay, chủ nhật cũng trở lại trường ở Hõm sâu… Vậy là mình đợi nàng leo đến lưng chừng dốc, rồi hai đứa cùng đi lên đồi, theo ngả đường mòn vắt ngang qua mái rừng cây phong xào xạc bao tiếng mơ hồ…
   Thế mà chiều đông nay (năm 1976) một mình tôi leo dốc đơn côi, chỉ có ngọn gió bấc đồng hành mù mịt cả một khoảng trời u ám mùa đông. Nhưng lòng tôi lúc ấy lại lồng lộng một vỉa nắng ngàn sáng láng bâng khuâng…Đến lưng chừng dốc ngày xưa, mình chờ mãi mà chẳng nghe thấy ai gọi tên mình…
   Lủi thủi một mình trèo dốc núi, lủi thủi một mình bước theo con đường mòn xưa như đang thở nặng nhọc dưới bàn chân nóng hổi– rồi cũng bước qua mái rừng phong xào xạc đơn côi, như ngóng đợi một điều gì…thăm thẳm như ước vọng mơ hồ dè dặt thuở nào… Đi qua vài ba ngọn đồi nữa là bắt đầu xuống                                                    

dốc. Vậy là bắt đầu bước vào địa phận của Hõm sâu rồi…

- 6 -
Tôi căng mắt nhìn cố tìm lại cảnh cũ ngày xưa mà chẳng thấy, tất cả như thể chạy trốn vào bí ẩn trập trùng núi biếc…
(Xin thưa với bạn đọc rằng: Kỳ hai năm học 1969 – 1970 Trường phổ thông cấp 3 Đặc Biệt Cao Bằng đã được chuyển từ Hõm sâu sau đồi Khau Gạm về thị tứ Cao Bình rồi. Mùa đông năm 1976, tôi vào Hõm sâu là để tìm lại kỷ niệm xưa mà thôi…Tìm lại hình bóng của ước vọng – chính là một điều nan giải nhất…)
   Từ đỉnh đồi đi xuống dốc, lòng tôi chao liệng như cánh chim ngàn xa tổ lâu ngày, nay lại lủi thủi tìm về. Lại đến một khe suối cạn, lại qua một chiếc cầu gỗ nhỏ có đắp một lớp đất mỏng bên trên cầu… Song hôm nay không thấy mái nhà tranh đâu nữa. Hồi ấy mái nhà tranh bình dị này vừa là nơi ở cho học trò và thầy giáo vừa là lớp học những ngày đầu. Ngôi nhà đơn sơ ấy có bốn gian, một góc nhỏ của gian đầu tiên bên cầu gỗ nhỏ bắc ngang khe suối cạn – được ngăn lại thành một chiếc phòng nhỏ xíu đủ đặt một chiếc giường cá nhân và một chiếc bàn nhỏ. Đó là nơi ở của thầy giáo Chu Mạnh Vân (sau này là Nhà giáo ưu tú, Phó giám đốc Sở giáo dục Cao Bằng). Mùa thu năm 1967 tôi vào Hõm sâu học lớp 8. Hồi ấy thầy Vân dạy toán lớp 9 và lớp 10, nên tôi không có dịp nào đuợc vào thăm căn phòng ở giản dị đơn sơ của thầy. Con đường nhỏ chạy qua trước phòng ở của thầy, đi vào phía trong của Hõm sâu.
   Một mình trong ánh chiều đông xám ngắt, gió bấc thổi vù vù – tôi ngẩn ngơ đứng ngay bên cầu nhỏ bắc qua khe suối cạn của ngày xưa, cố hình dung xem lớp học ở vị trí nào và căn phòng ấm cúng của thầy Vân ở nơi đâu? Trước mặt tôi lúc ấy chỉ còn là một bãi đất trồng sắn của gia đình nhà ông Hồ (một ông già người Tày ở Hõm sâu, chứ không phải cụ Hồ Chủ tịch đâu). Tôi lấy bước chân mình áng chừng, chỗ này là phòng ở của thầy, chỗ kia là lớp học nhỏ có cửa đi từ cuối lớp đi lên. Từ trên phía bảng (không có bục giảng) nhìn xuống, thầy sẽ thấy bao ánh mắt học trò nhìn lên chăm chú lắng nghe bao điều tâm huyết của thầy và của cuộc đời. Nhìn xa hơn qua cửa lớp xuống phía dưới là những thửa ruộng bậc thang, cứ mùa thu về là đầy ắp lúa vàng. Và, từ căn phòng ở của thầy Vân nhìn ra cửa sổ cũng sẽ thấy những thửa ruộng bậc thang rực ánh vàng đẫm thơm hương lúa chín mỗi độ thu sang… Năm học lớp 10 (1970) lớp chúng tôi mới được học toán với thầy Vân và càng hiểu sâu thêm tấm lòng của thầy.
- 7 -
Song những ngày đầu năm 1967 ấn tượng thầy Chu Mạnh Vân để lại trong tôi: Là một con người toát lên một vẻ trí thức sáng láng, đậm đà phong cách thị thành. Bạn Nông Đình Tuân và mấy bạn khác nữa hồi ấy bàn tán xì xào: Thầy Vân là con của một vị thứ trưởng ở Hà Nội đấy… Đúng  là  học  trò  thường  hay thêu dệt những vầng sáng để choàng lên người mà mình ngưỡng mộ…                                                      
   Tôi cứ liên tưởng rằng ngôi nhà tranh, nơi có căn phòng nhỏ của thầy Vân hồi ấy – chính là một cửa ngõ, một chiếc tổ chim lớn chan chứa bao tâm tình của Hõm sâu. Chính vì vậy trong tâm tưởng của tôi, nó là một hình tượng nhiệm màu. Những đêm thu miền rừng trời chi chít sao giăng… Thầy Vân mở toang      
cánh cửa sổ phòng mình để đón gió từ dưới cánh ruộng bậc thang thoảng tới.            
Ánh vàng và mùi hương lúa chín theo gió nhè nhẹ lùa qua cửa sổ, phả vào từng trang giáo án của thầy đang đan dày chi chít những hình vẽ và công thức toán học như đang phập phồng thở theo từng nhịp tim nóng hổi của thầy…Bất giác thầy ngẩng đầu lên, nhìn ra cửa sổ, ánh mắt xa xăm… hình như có cả mùi hương rất nồng nàn và thanh nhẹ lẫn vào theo gió núi. Phải rồi, đó là mùi dã hương phảng phất từ phía dưới Nước Hai, nơi có hẳn một khoảng rừng với nhiều cây dã hương cổ thụ  đang khẽ khàng rung tán lá rì rào… Có thể nói rằng: Mỗi học trò chúng ta đều có những cảm nhận rất chủ quan và rất riêng về những người thầy kính mến của mình hồi xưa. Năm tháng có thể lùi xa, cuộc đời mỗi người dần trôi vào quỹ đạo của tuổi già. Song những cảm nhận xa xưa ấy nào có già đi theo năm tháng đâu! Và tôi nghĩ đó là một diễm phúc của đời người chúng ta vậy.
  Chính vì lẽ đó, cho nên từ khi Trường chuyển từ Hõm sâu sau đồi Khau Gạm về thị tứ Cao Bình (vào đầu năm 1970) – trong giờ thầy Vân dạy toán cho học trò lớp 10 của chúng tôi hồi ấy – mỗi lần ngước nhìn lên bảng thấy gương mặt sáng của thầy, tôi lại như thấy mùi hương và ánh vàng của những thửa ruộng bậc thang ở Hõm sâu toả ra nồng nàn từ mỗi lời giảng của thầy. Ánh vàng long lanh  của mùa thu hay của lòng thầy, tôi cũng không rõ nữa.

- 8 -


Song một điều chắc chắn rằng, theo những lối tư duy rực ánh vàng ấy mà thầy hết lòng truyền thụ, chúng                                                  
tôi đã đi gần như đến tận cùng của các bài học ngày xưa và cả những bài học cuộc đời trùng điệp của ngày hôm nay đó – Để rồi mỗi khi gặp lại thầy Vân và những người thầy kính mến của ngày xưa ấy, chúng tôi có thể tự hào mà nói rằng: Chúng em đã thực hiện tốt theo lời dạy và kỳ vọng của các thầy ở Hõm sâu xa xưa đối với chúng em. Thầy Chu Mạnh Vân đã truyền thụ cho học trò từ hồi ấy phương pháp tư duy toán học tối ưu để có thể xử lý chủ động những tình huống bất ngờ mà trong quá trình người làm toán thường phải đối mặt. Bản thân thầy cũng hay đưa ra những tình huống bất ngờ, làm sửng sốt học trò, gây tò mò cho những khám phá mới đầy thú vị. Và mới đây thôi… đầu năm 2012 này thầy Chu Mạnh Vân đã gửi cho tôi một cuốn hồi ký tâm huyết của thầy có nhan đề “Lên miền cao dạy học” dài những bẩy mươi  trang A 4. Đây cũng chính là một tình huống bất ngờ thú vị của cuộc đời, tôi nghĩ, không chỉ đối với những lứa học trò của Hõm sâu ngày ấy thôi đâu, mà còn…
 Ấn tượng của tôi về thầy Chu Mạnh Vân là như vậy đó.

… Gió bấc chiều đông vẫn thổi vù vù, như thể thổi bạt đi những kỷ niệm vốn đã găm sâu trong ký ức lòng tôi. Song, gió ơi, ngươi đành bất lực thôi. Mỗi bước                                                            
chân của ta vào Hõm sâu như đang găm đầy kỷ niệm ngời sáng đây này…
   Lòng bồi hồi xao động tôi nhẹ nhàng bước qua trước cửa phòng thầy Vân (trong tưởng tượng) để đi vào trong Hõm sâu. Men theo một con đường nhỏ ở phía mép dưới của rẫy ngô ngày xưa - Tôi vẫn còn nhớ hồi ấy người ta trồng, không biết loại giống gì, mà có những cây ngô xanh mướt cao quá đầu người.
                                                          
Và dẫu hồi ấy là thời chiến thầy trò ăn uống kham khổ, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ có hiện tượng bẻ trộm ngô ở rẫy ấy của người dân. Điều đó quả thật là tuyệt vời…ngoài sức tưởng tượng của không ít lớp người trẻ hôm nay.
   Đi một quãng nữa, nhìn lên phía trái, trên một mỏm đồi nhỏ là ngôi nhà gỗ của ông Hồ.
- 9 -
Nhưng chiều ấy (mùa đông năm 1976) tôi nhìn không thấy ngôi nhà xưa của ông nữa. Đúng rồi, nhà ông đã chuyển ra chân đồi Khau Gạm mà lúc nãy tôi đã gặp trước khi lên dốc. Thế là… lòng lại như hụt hẫng một điều gì…
   Dung dằng một chút: Nếu rẽ trái thì sẽ lên chỗ nhà ăn và ký túc xá nữ, rồi sẽ lên tiếp tới hai lớp học cũ trên sườn đồi. Nếu rẽ phải thì sẽ đi ngang chân đồi vào gặp mỏ nước nguồn trong vắt – một mảnh gương chan chứa bao ánh mắt của bạn bè và thầy giáo những năm xưa - Một nguồn thơ lúc nào cũng chan chứa nỗi niềm đợi chờ bao cố nhân… vào một ngày đẹp trời nào đó lại trở về…Rồi sẽ gặp ngay văn phòng của các thầy hồi xưa của Hõm sâu bên mỏ nước long lanh…
   Tôi đành chắp hai tay hướng về lối rẽ trái, tỏ ý xin lỗi nguồn kỷ niệm đang ẩn tàng phía ấy – để được ung dung đi theo lối rẽ phải vào với mỏ nước đang thấp thỏm đợi chờ… Đi tiếp vượt qua mấy thửa ruộng bậc thang nhỏ, rồi men theo mép dưới mỏm đồi nhỏ nhà ông Hồ - thì đến ngay một khoảng vườn nhỏ xíu đầy  cam quýt. Ôi… hồi xưa, cứ mỗi dịp mùa thu sang, cũng là lúc bắt đầu khai giảng năm học mới, vườn quýt này bao lần lại kết trái để hong ánh nắng vàng thơm của mùa thu, để dâng hiến cho đời vị ngọt nồng đượm của lòng mình. Chúng tôi có diễm phúc được học hành hơn hai năm trời trong Hõm sâu, được đằm trong hương quýt chín nồng nàn suốt cả sáng – trưa – chiều – tối và cả những giấc ngủ đằm sâu đầy ánh sao trời… Đúng thế… mùa thu năm 1967, học trò lớp 8 và lớp 9 chúng tôi được bố trí ở một gian xép nhỏ lợp rơm (được nối thêm vào đầu kia của căn nhà chính lợp ngói). Phía ngay trước nhà,  chính là vườn quýt này đây… Và… trong những giấc ngủ chập chờn của chúng tôi hồi ấy, len vào giữa nỗi nhớ nhà (vì lần đầu tiên xa gia đình) và ước mơ cao vời của tuổi trẻ về ngày mai rạng rỡ - là một làn hương tinh khiết của mùa quýt chín mơ màng, huyền ảo và quyến rũ vô cùng. Nhiều đêm thao thức không ngủ được, một mình tôi nhẹ nhàng vén màn dậy, rồi đi ra vườn quýt giữa đêm sao. Tôi ngây người hít căng lồng ngực mình hương thơm của mùa quýt chín, như thấy lòng mình loáng sáng như ánh sao đêm đang thì thầm phía cuối trời xa xăm…Và… tôi đã theo ánh sao ấy mà đi khắp mọi phương trời, sang tận Xanh Pêtécbua của nước Nga xa ngút ngàn thăm thẳm…
- 10 -
rồi cũng lại về theo ánh sao long lanh ấy, theo hương mùa quýt chín nồng say năm xưa, để rồi được ngẩn ngơ bên vườn quýt chiều đông nay, để được tận hưởng hạnh phúc – hạnh phúc của sự trở về…                                                   

    Thế là, tôi tự thưởng cho mình một nụ cười giữa buổi chiều đông âm u, mà lòng tôi đâu có âm u… Hẳn gió núi cũng ghen với lòng tôi chiều nay chăng, mà phải thổi những cơn lạnh dài như thế?
                                                            
   Đang miên man với dòng hồi tưởng cũ về hương quýt chín mùa thu, bỗng nhiên tôi lại trở về thực tại. Chiều đông nay sao vườn quýt còi cọc vậy. Giờ đây vườn quýt đã trở thành vườn hoang từ bao lâu rồi, tôi cũng không rõ nữa. Lòng chạnh buồn khôn xiết. Tôi giơ tay nhẹ nhàng bứt lấy mấy nhánh lá quýt xanh, vò nát, rồi đưa lên mũi ngửi… Vẫn mùi hương nồng đượm như thuở nào đấy thôi. Tôi ngoái lại nhìn quanh, không thấy ai cả… không thấy bóng mấy nhà tranh ngày xưa, không thấy bạn bè thuở nào… Lòng tủi buồn vô hạn… Nhưng thôi, mình cứ theo ánh sáng của ký ức mà đi… Thế là phút chạnh buồn như cơn gió thoảng ấy, nhanh chóng trôi qua…
    Tần ngần một chút nữa bên vườn quýt hoang giữa chiều đông… tôi bước tiếp, đi đến lối xuống một chỗ trũng chân đồi. A, mỏ nước cũ đây rồi. Theo lời kể của thầy Chu Mạnh Vân trong hồi ký “Lên miền cao dạy học”, thì mỏ nước này là do thầy giáo và học trò khoá 1 gây dựng nên. Họ đã khơi rộng nguồn nước tự nhiên chảy ra từ chân đồi, rồi xây xi măng bao quanh thành hình vuông, mỗi chiều rộng khoảng một mét rưỡi. Vậy là mỏ nước hiện lên như một tấm gương vuông vắn xinh xinh giữa non ngàn xanh ngát một màu xanh trùng điệp không                                                                 cùng. Xung quanh gương nước ấy, được bạt đi cho bằng phẳng và lát bằng những tảng đá núi sẫm một màu đen bóng. Từ gương nước ấy, có một ống dẫn nhỏ cho nước thoát ra và chảy xuống mấy thửa ruộng bậc thang nhỏ phía dưới chân đồi.
   Cũng may mắn lắm thay, trùm lên gương mỏ nước ấy là bóng một lùm chanh có vài cành nhỏ chìa ra loà xoà soi đáy nước long lanh. Mỏ nước nguồn ấy trong trẻo và mát ngọt vô ngần – mát ngọt như tình người suốt bao năm tháng không bao giờ phai.

- 11 -

Đúng vậy, năm tháng cứ vô tư và nhẫn tâm trôi đi, bao vật đổi sao dời… và duy chỉ có tình người đọng lại như ánh long lanh bền bỉ của mỏ nước này – mỏ nước của Hõm sâu ngày ấy, của cả hôm nay và mai sau…
Tiếc quá chừng… khi tôi viết lại cảm xúc của mình lúc này (đang ở Tuy Hoà, Phú Yên – miền nam Trung Bộ xa xôi, bên biển ngời sóng vỗ) tôi đã không còn bức ảnh cũ của ngày xưa. Tôi cũng không còn nhớ ai đã từng bấm những kiểu ảnh kia bên nguồn nước của ký ức rực ngời ấy nữa. Song hình như tôi vẫn còn nhớ trong ảnh ấy có chị Mông Thị Miền với nụ cười hiền hậu của người con gái miền đông Cao Bằng (mà các cụ ngày xưa đã từng truyền tụng nhau: miền Quảng Uyên và Trùng Khánh – chính là miền gái đẹp. Và mới đây thôi, trong cuộc thi Hoa hậu các dân tộc Việt Nam năm 2011 vừa qua, cô gái Nùng của Quảng Uyên, Cao Bằng, Triệu Thị Hà đã đoạt danh hiệu Hoa hậu thật ngoạn mục, với một sáng kiến vụt đến rực ngời như ánh chớp loé lên, làm chói chang và loá mắt mọi người cùng Ban giám khảo, làm bàng hoàng tâm can bao người ngưỡng mộ - là thay câu trả lời kể về quê hương em, bằng một câu hát lượn nàng ới xuất thần hết sức trữ tình, long lanh và rưng rưng…)
   Trong tấm ảnh bên nguồn nước ấy hình như còn có chị Khoảng Thị Kíu với dáng vẻ thanh thoát, thông minh và lanh lợi… Rồi hình như có chị Long với                                                      
gương mặt hồn hậu và thoáng một vẻ buồn thầm. Đấy là cảm nhận riêng của tôi
mà thôi. Hẳn cuộc đời của chị có nhiều niềm vui chứ, và tôi cũng cầu mong, cũng xin chúc chị xứng đáng được như thế. Rồi lại hình như có bạn Nguyễn Thị Lê vô tư mà giàu nghị lực. Gương mặt bạn gái này, không hiểu sao, cứ gợi cho tôi nhớ tới một người bạn của tôi hồi học lớp 6 ở cấp 2 trường làng Cốc Lùng – Sầm Thị Lớp. Hồi học cấp 2, tôi cũng là một học sinh giỏi của trường và của tỉnh Cao Bằng, nên cũng được nhiều bạn bè chú ý, đặc biệt là các bạn gái. Đó là điều dĩ nhiên. Tất cả các bạn cùng học trường làng hồi cấp 2, khi xưng hô với nhau thường là mày – tao (đối với con trai), và gọi tên – xưng mình (đối với con gái). Riêng cô Lớp trong một lần nói chuyện với tôi, đã mạnh dạn gọi: Anh Châu và xưng em… Cô gọi chân thành và nghiêm chỉnh với một tấm lòng cảm phục Triệu Lam Châu. (Còn nữa)
- 12 -



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét