Triệu Lam Châu
Triệu Lam Châu
CHẤT PHIÊU BỒNG LÃNG DU TRONG THƠ NGUYỄN TƯỜNG VĂN
Đầu năm 1980 tôi được Tổng cục Địa chất điều động vào làm công tác
giảng dạy tại Trường trung học chuyên nghiệp Địa chất 2 (Nay là Trường Cao đẳng
Công nghiệp) thị xã Tuy Hoà. Vậy
là có dịp đến đọc sách ở thư viện Hải Phú. Tại đây tôi được làm quen với anh Dương Thái Nhơn, cán bộ thư viện,
người khởi xướng Đêm thơ Nguyên tiêu Tuy Hoà năm 1981 xa xưa. Cũng nhờ anh Nhơn
mà tôi được gia nhập Hội những người yêu đọc sách. Sau khi gia nhập Hội này,
tôi mới được làm quen với nhà thơ Nguyễn Tường Văn – một con người giàu nhuệ
khí, yêu thơ văn say đắm và có giọng đọc thơ sang sảng, giàu ấn tượng, chinh
phục người nghe.
Thế rồi tình cờ trên Tạp chí Văn nghệ Phú Khánh hồi ấy, tôi đọc
được bài thơ Nghĩ về mẹ của anh. Một bài thơ tràn trề tình cảm của một người
con đối với mẹ già - làm cho độc giả là tôi khi đó cảm tình ngay với hồn thơ
anh:
Khi con về đường xóm nhỏ lên
đèn
Mẹ tựa cửa mong những lần con
vắng
Trời vào đông sao chiều nay
gió lặng
Giúp con về bên mẹ đêm nay…
Vậy là con đi công tác xa và trở về nhà với mẹ trong một buổi chiều
đông. Trời thì buốt lạnh – mà lòng con lại ấm áp vô ngần bởi được sưởi ấm tình
mẹ nồng nàn bấy năm qua.
Tiếp sau đấy là những năm tháng dài dặc hàng ba chục năm ròng chúng
tôi sinh hoạt với nhau trong Hội văn học nghệ thuật thị xã Tuy Hoà, Hội văn
nghệ Phú Khánh, rồi Hội văn nghệ Phú Yên sau này. Tôi chỉ được đọc thơ anh ở
những bài thơ lẻ. Chính vì vậy tôi chưa lẩy ra được chất thơ chủ yếu trong hồn
anh là gì, dẫu ngoài đời chúng tôi đã là bạn của nhau từ năm 1980 xa xăm.
Và một buổi chiều thu tháng 9 năm 2013 này, sau khi anh phản hồi
rằng, anh thích bài hát Mùa trăng núi Nhạn của Triệu Lam Châu trên mạng – anh
nhắn thêm tin “Mời Châu đến nhà mình
chơi, sẽ có quà cho bạn”. Tôi tò mò quá,
và sáng hôm sau tôi liền đến nhà anh ngay. À, hoá ra là anh vừa
phát hành
tập thơ Mênh mông trước biển*, dày gần hai trăm trang. Tôi đã đọc
kỹ tập thơ này và mới lẩy ra được Chất phiêu bồng lãng du trong thơ Nguyễn
Tường Văn đó. Dĩ nhiên trong tập thơ này có nhiều bài nói về nhiều chủ đề khác
nhau. Song theo cảm nhận của Triệu Lam Châu, khi thơ anh chạm vào vỉa phiêu
bồng lãng du vốn sẵn có trong lòng mình – thì câu chữ như có hồn nhập vào một
cách say đắm sảng khoái và phóng khoáng hẳn lên ngay. Thế rồi tôi trộm nghĩ: Có
lẽ mình là dân địa chất, quen với chất phiêu bồng lãng du đây đó khắp từ bắc
chí nam để tìm quặng mỏ - mà dễ đồng cảm với thơ Nguyễn Tường Văn ở khía cạnh
này chăng?
Thì đây, mời bạn đọc cùng tôi đi vào vỉa tầng đặc sắc này của thơ
anh:
Giã biệt quê nhà Hề viễn
xứ
Cuối trời mây trắng toả rừng
thu
Tóc mẹ già búi tròn nỗi nhớ
Sông chiều trôi mãi kiếp lãng
du…
Ngẫm sâu bài thơ bốn câu này ta thấy: Tấm lòng hừng hực của chủ thể
bài thơ này, như muốn tràn ra làm ướt cả trang thơ đây rồi. Một câu thốt ra tự
lòng mình thật sảng khoái Giã biệt quê
nhà Hề viễn xứ - một sự lâng lâng
háo hức dẫn anh lên đường - Bởi vì một Vầng bí ẩn rất đỗi diệu kỳ đầy quyến rũ
đang chờ phía trước… Cuối trời mây trắng
toả rừng thu… Câu đầu đang ở mạch chở hồn anh bay vút đi nơi xa, lại có
thêm một chữ HỀ, thật sảng khoái, thật đắc ý, như thể một câu hát đệm KHOAN
KHOAN HÒ KHOAN trong bài Quảng Bình quê ta ơi (Của nhạc sĩ Hoàng Vân) – để đưa hồn
bay vút cao đến tận trời, nơi long lanh nhất và toàn bích nhất của sự tưởng
tượng.
Dẫu khi ngoái nhìn lại quê nhà, người lãng tử có một chút se lòng… Tóc mẹ già búi tròn nỗi nhớ… Nhưng chất
lãng du cứ lại cuốn anh đi, đi mãi. Đó là tư chất của đời anh mất rồi, làm sao
mà cưỡng lại được cơ chứ … Sông chiều
trôi mãi kiếp lãng du…
Sẽ có bạn đọc phân vân rằng: Thực tế địa bàn hoạt động của nhà thơ
– phóng viên Nguyễn Tường Văn, không rộng lắm: Tuy Hoà – Đà Lạt – Nam Bộ - Hà
nội… Một địa bàn nhỏ hẹp như Việt Nam mình như vậy, thì chất lãng du
của thơ Nguyễn Tường Văn sẽ như thế nào đây, có bị bó hẹp theo ranh giới địa lý
không?
Triệu Lam Châu nghĩ rằng: Chất lãng du ở bên trong tâm hồn mới quan
trọng và quyết định chất lượng thơ, chứ đâu phải cứ đi nhiều là thơ lãng du sẽ hay
đâu. Tất nhiên nếu địa bàn hoạt động của Nguyễn Tường Văn rộng ra
cả ngoài biên giới quốc gia, với tâm hồn nhạy cảm như anh – thì hẳn
thơ anh sẽ có thêm những chất lượng mới.
Một trong những nét điển hình của tâm hồn người lãng tử là thích
khám phá những điều mới lạ. Cái lạ như hớp hồn anh, làm cho anh bần thần, ngơ
ngẩn…mà chiêm nghiệm … và hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ nhất trong bài Ngơ
ngẩn Thăng Long. Người lãng tử trong bài thơ này, hẳn đã lâu từ bao năm nay
Lãng du bằng tâm tưởng đến Thăng Long rồi – nên giờ đây khi trực tiếp đặt chân
đến mảnh đất của hồn mình – anh ta vồ vập…Qua
miền Quan Họ trói hồn anh. Và cứ thế mà cứ mặc sức tưởng tượng, càng tưởng
tượng càng cảm thấy hạnh phúc dâng trào. Bởi vì theo mạch tưởng tượng thần diệu
ấy – là cả một lớp lớp hào quang của quê nhà và của lịch sử như hẹn nhau dồn
dập tụ về:
Ta nơi tháp Nhạn về tháp Bút
Hồ Gươm soi bóng ngỡ sông Ba
Dời đô, trăn trở lòng Công
Uẩn
Nguyễn Huệ quân reo đêm Đống
Đa
Nếu không đến Thăng Long trước bằng tưởng tượng say đắm bấy năm
ròng trong khao khát vô ngần của sự gặp mặt – thì khó lòng mà có những vần thơ,
tưởng như nhẹ như không - mà chứa chan sức nặng của lịch sử ông cha thấm đẫm
ánh tự hào như vậy:
Một chiều rảo bước qua Giảng
Võ
Chừng như cung kiếm áo hoàng
bào
Tiền nhân đuổi giặc vương đâu
đó
Trên vòm cây, con phố lao xao
Ta có cảm tưởng bài thơ như bột phát ra từ một tấm lòng đã được ủ
chín những vỉa tầng lấp lánh ấy từ lâu – nên bài thơ tuôn chảy, lôi cuốn lòng
người như một bài hát say nồng. Như thể qua một ánh mắt ngỡ như mơ hồ - mà đã
phải lòng ngay rồi đó. Một giọng gái ngọt sông Hồng, một chút rét nàng Bân –
vốn là những nét lạ so với miền Nam Trung bộ quê anh – và hình như đã thành một
phần hồn của chàng lãng tử rồi:
Mai về phương Nam
đường xa lắc
Dư âm giọng gái ngọt sông
Hồng
Chút rét nàng Bân nơi xứ Bắc
Nghe lòng ngơ ngẩn chốn Thăng
Long
Tôi cứ đinh ninh rằng cái ngơ ngẩn rất nặng ký về phương diện thi
ca ấy của lãng tử thi sĩ Nguyễn Tường Văn – là điểm nút của sự giao hoà giữa
hiện thực cuộc sống và cảm xúc thơ nhiệt thành say đắm nhất. Và đó chính là sự
thăng hoa tột cùng của lượng đời chan chứa trong lòng anh vậy. Tôi gọi đó là sự
thành công trong thơ anh!
Nguyễn Tường Văn là một con người từng trải, lãng du phiêu bạt
nhiều nơi cả trong thực tế và trong tưởng tượng với sự chiêm nghiệm sâu xa về
thế sự, lịch sử cha ông và cuộc đời – bằng sự run rẩy tinh tế của người nghệ sĩ
– nên thơ anh dễ dàng đi đến trái tim người đọc bấy năm ròng.
Tâm hồn anh trải dài và đắm mình vào hiện thực từ những ngày trước
giải phóng năm 1975 đến nay. Mảng thơ trước năm 1975 của anh, đã có nhiều người
bàn luận và đánh giá. Tôi chỉ muốn nói thêm một điều rằng: Thơ anh ở giai đoạn
ấy để lại ấn tượng nhất là hai tác phẩm điển hình Tình ca cho tự do và Viết từ
trung tâm nhập ngũ.
Anh lãng du cùng cuộc đời, cùng với thơ – với một tâm thế của một
người yêu quê hương đất nước nồng nàn và thấm đẫm một niềm tự hào về lịch sử
hào quang của dân tộc.
Nhà văn Nga nổi tiếng Rứt Khêu đã từng nói đại ý: Càng đi xa, càng
nhìn thấy rõ ngọn núi. Đó là một câu nói giản dị mà giàu hình tượng, hay cà
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Điều này chính Triệu Lam Châu đã từng trải nghiệm
suốt mấy chục năm ròng sống xa quê. Do đó tôi thấy điều ấy vận rất đúng vào vào
thơ Nguyễn Tường Văn. Mỗi lần đi xa trở về quê, anh đều có những bài thơ dạt
dào cảm xúc với một cái nhìn mới mẻ:
Hôm nay anh trở về qua đường
làng cũ
Tiếng hát nào hoà sóng biển
xôn xao…
Đi xa trở về với một túi khôn muôn nẻo dần đầy lên trong lòng, anh
bồi hồi nhìn cảnh cũ với một ánh nhìn mới tinh khôi:
Ở biển này anh bao lần ngồi
nghe sóng vỗ
Sao hôm nay quá đỗi diệu kỳ
Sóng biển rạt rào hay tình
yêu nồng cháy
Giữa bình minh thuần khiết
đắm say
Và anh nghe ở bề sâu của tâm hồn mình đầy rung động về lịch sử và
văn hoá rực ngời của nước nhà:
Anh nghe âm vang điệu Kiều
trong tiếng sóng
Lòng bỗng dạt dào khúc hát
thuở Hùng Vương
Chính vì hôm nay – Cha phải
đổ máu xương
Chính vì hôm nay – Mẹ suốt
đời tất bật…
Nhiều khi tôi cứ nghĩ lẩn thẩn rằng: Nếu nhà thơ Nguyễn Tường Văn
không có - Chuỗi đời dài anh sống lãng du
– thì liệu anh có được những bài say đắm như Gửi thành phố quê nhà và đặc
biệt nhất là tác phẩm Quê mẹ không? Chắc chắn là không, tôi xin khẳng định như
vậy.
Một kiểu thơ phiêu bồng lãng du rất điển hình, có một điều gì đó
vừa như phong sương vừa liêu trai mà lại hiện thực đậm đà chất nghệ sĩ:
Chuỗi đời dài anh sống lãng
du
Đâu nhớ nổi một tên làng tên
đất
Mãi nghêu ngao “người từ trăm
năm về nghe tình động”
Điệu u hoài “nhìn những mùa
thu đi”
Mắt xa vời trông “mùa đông Pa
ri”
Tổ quốc quê hương ngỡ chừng
rất lạ…
Từ những nguồn năng lượng lãng du ấy trong tâm hồn, anh trở về quê
mà nhìn hiện thực thấy ánh lên những sắc màu mới của tình quê hương xứ sở.
Hôm nay lòng anh như biển cả
Theo triều lên tim rào rạt tháng
ngày
Muốn dâng trọn ngọn sóng kia
tiếp nối đợt sóng này
Thêm sức nước nâng thuyền về
nặng cá…
Tôi đặc biệt thích bài thơ Quê mẹ của Nguyễn Tường Văn. Có thể đây
là một bài thơ thành công điển hình nhất của anh sau giải phóng năm 1975. Một
bài ca sáng láng ca ngợi quê hương Hoà An với những kỷ niệm máu thịt của tác
giả thời thơ ấu còn chìm đắm dưới gót giày của quân xâm lược – và ngày hôm nay
có bình minh tươi sáng đang đến làm rạng rỡ lòng người và cuộc đời.
Hoà An! Hoà An!
Hai mươi năm con lại gọi tên
Người
Như chính tên thật của mình
giờ đây ghi vào lý lịch
Mỗi truông làng còn khắc ghi
kỳ tích
Từ luỹ tre vang vọng rì rào
Thuở cha lên đường nắng ngập
ánh vàng sao…
Đọc đoạn thơ trên ta thấy một niềm thiêng liêng sâu lắng, một sự
nghẹn ngào chan chứa trong lòng khó nói lên lời. Đúng là tâm thế của một người
con đi xa trở về quê cũ, hết sức bùi ngùi lắng đọng sâu xa. Không đắm mình sâu
xa vào những sự vật tưởng như bình dị mà thần diệu của quê nhà, làm sao mà nghe
được trong tiếng vọng rì rào của ngàn lá tre làng - mà thấy được hình ảnh ngày xưa cha lên đường
nắng ngập ánh vàng sao…
Thế rồi theo tiếng vọng thần
diệu rì rào của luỹ tre làng kia, mà thấy lại kỷ niệm rực ngời của một thời
tuổi thơ yếu dấu ấy:
Mía Ân Niên còn ngọt giọng
bài chòi
Chợ Quán – Phú Ân rộn rã chào
mời
Bánh tráng Đông Bình dẻo thơm
mùi gạo
Ruộng Đông Phước hai mùa vang
tiếng hát
Ngỏ lời ái ngại xa xưa:
- Muốn về Vĩnh Phú ăn dưa
Sọ e Vĩnh Phú đãi đưa nhiều
lời…
Khi đọc những vần thơ say đắm như vậy của Nguyễn Tường Văn, Triệu
Lam Châu cứ muốn thốt lên rằng: Chao ôi, tôi ghen với các bạn đấy. Các bạn là
công dân của Hoà An, Tuy Hoà, công dân của những Vần thơ quốc vương Hoà An đó
nhé. Tự hào biết chừng nào. Tôi cũng là công dân của Hoà An đây – nhưng là Hoà
An của Cao Bằng biên cương xa ngái ấy.
Thế rồi những vần thơ như chắt ra từ gan ruột mình, làm lay động
người đọc:
Ơi Hoà An, nơi cắt rốn chôn
nhau
Hai mốt năm mẹ rứt ruột vay
nuôi con từng lon gạo
Ngày giáp hạt vây quanh nồi
cháo
Áo vá chằm không che nổi rét
vào đông
Những đêm trời đổ mưa giông
Chiếc chõng tre luôn đổi
chiều tránh dột
Nhà mẹ đấy giặc càn vẫn đốt
Khóm cau gầy xơ xác đứng bơ
vơ…
Đúng thế, nhắc đến mẹ già là nhắc đến Vầng sáng thiêng liêng nhất
của lòng mình. Và càng thấm thía những ngày xưa cơ cực bao nhiêu – thì ngày nay
anh càng thấy sáng láng bấy nhiêu khi quê hương hết bóng giặc thù và đang vươn
mình lên trong hạnh phúc.
Hoà An! Hoà An!
Người thức dậy sau bao năm
dài chờ đợi
Như chuyện ngày xưa công chúa
ngủ trong rừng
Theo mùa xuân hoàng tử về lay
gọi
Nỗi vui trào lên mắt mẹ rưng
rưng…
Tôi đồ rằng: Nếu tâm hồn Nguyễn Tường Văn không từng một lần phiêu
du vào những tác phẩm cổ tích của phương tây – thì làm sao anh có những vần thơ
tự nhiên và nhuyễn như vậy khi nói đến hình tượng nàng công chúa ngủ trong
rừng…trong văn cảnh đang phản ánh về một miền quê lam lũ phương đông Hoà An – Phú Yên của Việt Nam
xa thẳm này.
Và chất phiêu bồng lãng du của một công dân chân chính yêu quê
hương đất nước đã cho anh một vần thơ phóng khoáng lay động lòng người:
Hoà An! Hoà An!
Con xin làm loài chim bay về
cất cao tiếng hót
Giữa bầu trời quê mẹ buổi
bình minh…
Thời nhà thơ Nguyễn Tường Văn còn trai trẻ - thì hành trình phiêu
du của anh nhắm đến những miền đất lạ của hiện thực và tưởng tượng – để tích
luỹ năng luợng của sự hiểu biết – để truyền lửa lòng cho bao thế hệ trẻ vùng
lên đánh giặc thù:
Bút ta cầm là gươm là giáo
Mực ta dùng – máu của nhân
dân
Bút vung lên tan quân cường
bạo
Mực xuống đường đất cũng bâng
khuâng…
Nhà thơ Nguyễn Tường Văn phiêu bồng lãng du, không phải chỉ là một
cuộc du ngoạn bình thường cho cá nhân mình – mà còn là một sự dấn thân vào hiện
thực cuộc sống, tích luỹ vốn sống, chiêm nghiệm về những gì xảy trong đời sống
của nhân dân – từ đó làm nảy sinh những vần thơ giàu cảm xúc, cống hiến cho
cuộc đời này. Đó là một nhà thơ giàu bản lĩnh và giàu ý thức công dân. Thơ anh
là một loại thơ độc đáo có ích cho đời.
Và mấy chục năm sau, khi đã lớn tuổi rồi – thì anh lại làm một cuộc
hành trình trở về với dĩ vãng. Cuộc hành trình này không sôi trào hừng hực như
thời còn trẻ trung, mà nó đằm sâu trong
trải nghiệm và suy ngẫm sâu xa.
Những bài thơ tiêu biểu cho cuộc phiêu du trở về với dĩ vãng là:
Với sông Mường – Thăm bạn – Nhớ chị - Trở về với thanh tân…
Biết bạn chờ ta nơi dòng nước
Bốn mươi năm chưa trở lại
sông Mường
Phương xa bạn gọi chân chùn
bước
Vẳng nghe như sóng dội Tiền
Đường
Bạn đọc thấy rồi đó. Lời thơ rất giản dị mà chứa chan cả một trữ
lượng tình cảm dồi dào nén chặt những bốn muơi
năm rồi, chưa gặp lại nhau. Một niềm khao khát vô bờ. Có thể nói tình
bạn là một phần rất không thể thiếu được trong tâm hồn của Nguyễn Tường Văn.
Tôi mạo muội lý giải điều này như sau: Những người lãng tử gặp nhau ở chí hướng
phiêu bồng thời trẻ trung, hẳn là có rất nhiều kỷ niệm máu thịt – Do đó khi đã
lớn tuổi rồi (mà người lớn tuổi lại chỉ sống bằng tình cảm hoài niệm là chủ
yếu) nên nhà thơ có một nhu cầu rất mãnh liệt về tình bạn bè, nhất là những
người bạn cùng chí hướng thuở thanh xuân xa xăm…
Ai về phương ấy vin khúc hát
Lều cũ rêu phong có đợi chờ
Một thuở vắt ngang tầm đại
bác
“Đì đoàng”… đạn nổ vẫn đọc
thơ…
Tôi cho rằng khổ thơ trên đây đã thể hiện một tình bạn vào loại độc
đáo nhất của thi ca Việt Nam
thời hiện đại…“Đì đoàng”… đạn nổ vẫn đọc
thơ…Một câu thơ hay đến bất ngờ. Tôi, Triệu Lam Châu, cũng là dân làm thơ –
nên tôi đồng cảm tuyệt đối với vần thơ này của Nguyễn Tường Văn. Phần lớn những
người làm thơ chân chính, họ coi việc làm thơ là lý tưởng lồng lộng như ngọn
núi Chô Mô Lung Ma của đời mình, là lý do họ sống trên cõi đời này. Cho nên họ
sẵn sàng xả thân vì thơ như vậy đó. Và như người ta thường nói THƠ ĐÃ CHỌN HỌ
ĐỂ PHẢN ÁNH CUỘC ĐỜI NÀY VẬY.
Nương theo mạch phiêu bồng
lãng du trở về dĩ vãng của hồn thơ Nguyễn Tường Văn, ta bắt gặp những vỉa thơ
đầy thú vị và cảm động về tình bạn độc đáo của họ một thời trẻ trung. Bài Thăm
bạn – một lần nữa nhà thơ cho chúng ta thấy một sự đói tình bạn triền miên đến
mức nào, mà anh phải:
Nói dối vợ, tao đi công tác
Báo dối cơ quan vợ ốm nhà
Hun hút hai ngày tìm thăm bạn
Núi đồi tiếp biển tận trời
xa…
Tôi có cảm tưởng rằng: Nếu Nguyễn Tường Văn thiếu mất tình bạn
trong lòng mình – thì hẳn anh sẽ … Đau
đớn lòng ta chết nửa con người… (Theo ý nhà thơ Giang Nam ) chăng? Máu nghệ sĩ và chất
lãng du đã ngấm vào anh từ tiền kiếp rồi – chính vì thế anh sống đúng theo
những gì mà tạo hoá đã mã hoá vào số phận của anh mà thôi - Mà đó cũng là một
hình thái của hạnh phúc đấy – hạnh phúc tinh thần – hạnh phúc sáng tạo của một
người nghệ sĩ chân chính.
Trong cuộc hành trình trở về với dĩ vãng của hồn thơ Nguyễn Tường
Văn, tôi thấy sâu đậm nhất là chùm thơ viết về cảnh sắc và tình người lắng sâu
của Đà Lạt mê hồn. Ôi Đà Lạt, Đà Lạt mộng mơ đối với bao du khách mới đến tham
quan. Và người ta choáng ngợp trước vẻ đẹp kiêu sa ảo huyền lãng đãng mờ sương
thần tiên của xứ sở này. Song đối với Nguyễn Tường Văn những nét huyền diệu ấy
của thành phố và con người xứ này từ ngày xưa – nay đã hoá thành những vỉa vàng
sâu nặng của tình người. Đọc lên là thấy rưng rưng, bởi vì tác giả đã nạp dòng
điện của tình cảm lòng mình vào những câu thơ đầy lửa ấy rồi:
Em rong ruổi trên đường đời
phiêu bạt
Đêm chuyển mùa nghe mưa đổ
rừng thông
Cầm đồng bạc chị cho thời lưu
lạc
Em rưng rưng một thuở nao
lòng…
Vâng, hồi trẻ Vầng lãng du lôi cuốn anh đi hăm hở tới bao chân trời
xa đến nghẹn lòng… Và giờ đây khi mái tóc trắng như sương, anh lại trở về mà
sưởi ấm lại nguồn xưa, mà nghe lại tiếng nói cười rộn rã ánh lên như kim cương,
kim cương của một trời kỷ niệm không bao giờ phai trên cõi đời này:
Căn nhà gỗ, ôi, sao ấm áp
Tiếng nói cười rộn rã bên
nhau
Tuổi sáu mươi quay về thành
phố cũ
Tóc huyền chị xưa, giờ mây
trăng ngang đầu…
Đúng vậy… người lớn tuổi chỉ sống chủ yếu bằng tinh thần thôi. Nghe
tiếng nói cười ấm áp ấy và vầng tóc trắng như mây ấy của chị - mà nước mắt cứ
tự nhiên tuôn ra dàn dụa rồi. Đó cũng là những khoảnh khắc hạnh phúc của cuộc
đời – Hạnh phúc của sự đoàn viên với kỷ niệm mờ xa…mà cháy bùng lên như núi lửa
phun trào…
Trở về với Đà Lạt, nơi nhà thơ từng học hành gắn bó thời trẻ trung
– anh
thấy như trở về với thanh tân. Đây là một tứ thơ rất hay. Và anh
trả nợ thành phố này theo cách rất riêng của một nghệ sĩ, một nhà thơ giàu ân
nghĩa:
Anh trở lại thành phố này làm
thơ trả nợ
Nợ những bạn bè sinh viên
cùng bá vai hát về
“Một ngày mai khi hoà bình”
trước lúc nhận phần ăn nơi quán cơm xã hội
Nợ quán cóc chị Sáu đô-mi-nô
một đờ-mi đen ngày chủ nhật trời mưa
Nợ em nụ hôn và cành dã quỳ
bên lề đường về Dinh Một
Nợ những chiều ngắm hồ Xuân
Hương khi hoàng hôn xuống
Nợ bao lần chơi trò ú tim
đuổi nhau trên đồi cù…
Khi đọc những vần thơ có vẻ sang sảng tự hào về món nợ của mình như
vậy của anh, tôi mỉm cười buột miệng: Trời ơi, nợ nặng như thế thì làm sao mà
trả nổi đây, hỡi nhà thơ Nguyễn Tường
Văn thân mến của tôi?
Có thể là do anh thành thực kể “tội” nợ của mình như vậy – mà làm
cho Một Đấng tối cao vô hình nào đó của sự mơ hồ bảng lảng rất đỗi xa xăm, mủi
lòng – mà phán rằng: Chính vần thơ thú tội của ngươi có vẻ như lắm lời kia, đã
xoá hết nợ cho ngươi rồi đó – để ngươi có thể bình tâm mà đi chơi trò ú tim đuổi nhau trên đồi cù…như
thời thanh xuân ấy.
Trên đây là sự giãi bày cảm xúc của tấm lòng một bạn đọc là Triệu
Lam Châu mạo muội nêu lên vậy thôi. Song một điều chắc chắn rằng: Thơ Nguyễn
Tường Văn được chưng cất lên từ những vỉa vàng ròng của cuộc đời anh – do đó nó
có lửa và có sức neo đậu lại trong lòng người.
Tuy Hoà – Đà Lạt – Đất nước Việt Nam - Vầng phiêu bồng lãng du của
tạo hoá đã cho chúng ta, những bạn đọc yêu thơ chân chính – một hồn thơ Nguyễn
Tường Văn giàu nghĩa tình đối với lịch sử, nhân dân và Tổ Quốc – như vậy thật
đáng quý.
Chúng ta chân thành chúc nhà thơ luôn mạnh khoẻ và gặt hái nhiều
thành công mới trong công việc làm thơ đầy nặng nhọc mà cũng rất đỗi vinh quang
giữa cuộc đời này.
Tuy Hoà 9/2014
Triệu Lam Châu
Đường trời: trieulamchau@gmail.com
Số nối: 0983 825502
* Mênh mông trước
biển – Thơ Nguyễn Tường Văn – Nhà xuất bản Hội nhà văn – 2013.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét