Hát mãi về ANH về ĐẢO
Đọc
tập thơ “ Trường Sa! Ơi Trường Sa!” của Lưu Thị Bạch Liễu
Nhà
xuất bản Đại học Thái Nguyên, 2014
Vũ Nho
Bao đời nay, Người Việt coi biển đảo là một phần máu
thịt của quê hương. Biết bao ca khúc, bài thơ của các văn nghệ sĩ đã nói về
Hoàng Sa, Trường Sa, những phần đất thiêng liêng mà cha ông ta đã đổ bao máu
xương đời đời gìn giữ. Nhà thơ Lưu Thị
Bạch Liễu, người con gái của núi rừng Thái Nguyên đã vượt muôn trùng sóng gió
để đến với những hòn đảo trong quần đảo Trường Sa. Chị đến với đảo, với các
chiến sĩ “ không chỉ… đón gió biển mặn
mòi, vục nước biển mênh mông vào tâm hồn mình, để cát Trường Sa hôn bàn chân,
để đá Trường Sa kể chuyện ngàn năm bi tráng mà còn để nước mắt chảy xuống thấm
vào và ở lại cùng với quần đảo thiêng liêng này”. ( Lời giới thiệu của nhà
xuất bản). Chị ra đảo với tư cách một
nhà báo, một nhà thơ, một người em gái hậu phương, một công dân yêu nước. Và
rồi sau đó về quê hương, chị luôn cảm thấy “ Biển vẫn thường vỗ sóng ở trong tôi”. Và tình cảm với đảo, với các
chiến sĩ đã đơm hoa kết trái thành 20 bài thơ Hát về đảo và 15 bài thơ Viết
trên sóng. Ba mươi lăm bài thơ là một món quà, một ấn phẩm giàu ý nghĩa khi
cả nước đang hướng về biển đảo trong những tháng ngày qua.
Trường Sa không xa…Trường Sa hay Hoàng
Sa luôn gẫn gũi trong trái tim mỗi người. Người lính đảo thường khiêm nhường,
trong thơ của chị nói những lời giản dị
:
Chẳng
có nhiều điều để kể về Trường Sa
Chỉ
có cát, có mây trời có biển
Có
san hô chẳng có người để tặng
Có
bông hoa bàng cùng thức trong đêm
Biết
kể gì về Trường Sa hỡi em
Vụng về lính biển
Nhưng
người đến đảo với trái tim rộng mở, với lòng khâm phục và xúc động vô bờ thì
thấy có biết bao điều có thể “hát” mãi về biển, về anh, về đảo.
Một
bông hoa bàng vuông sao mà đẹp lạ lùng :
Hoa
bàng vuông
Lung
linh
Mở
những lồng đèn nhỏ
Trắng
sáng
Dịu
thơm
Những
con sóng thèm mùi hương
Xô
về quanh đảo.
Lớp học của trẻ em ở đâu cũng có.
Nhưng lớp học trên đảo thật khác thường rất đẹp rất thơ :
Lớp
học như con tàu
Đâu
cũng nhìn ra biển
Bốn
bên là sóng trắng
Bốn
bề là biển xanh
Lớp học trên đảo
Một
tiếng chim hót cũng “dễ thương” vì gợi nhớ quê hương:
Chợt
vang tiếng hót sơn ca
Hót
say sưa hót thật là dễ thương
Ầm
ào sóng gió đại dương
Nghe
chim hót
Ngỡ
quê hương thật gần
Đảo Sơn Ca chợt
nghe tiếng hót
Con
cún nhỏ hiền lành ở đảo bỗng cũng thấy khác bình thường, bởi vì nó được nhìn
bằng ảnh mắt của trái tim thương mến, trái tim muốn hát ca, trái tim của
người yêu quý, ngưỡng mộ biển đảo “ Ước làm một vỏ ốc/ Nằm trong lòng biển khơi/
Ước làm một hạt cát/ Trong tay biển ngàn đời” ( Ra khơi) :
Lon
ton vờn bóng bông hoa bàng vuông đang bung nở như chùm pháo hoa […]
Xinh
xắn và sạch như vừa mua ra từ tiệm đồ chơi
Thơm
ngon như ghép bằng những múi bưởi
Chú chó nhỏ ở đảo Song Tử Tây
Hoa
ở đảo đẹp khác thường vì nó nở trong
điều kiện vô cùng khắc nghiệt “ lửa cháy
của nắng thiêu, sóng thét gào, gió thổi… đến mây trời cũng mặn”. Hoa mỏng manh cùng đảo bất khuất “ Bất chấp bão giông. Bất chấp nắng nung. Bất
chấp gió thét biển gào bào mòn da thịt”
( Hoa cúc trên đảo Sơn Ca). Ngay cả những cây rau cũng
như mang tình quê hương “Không đơn
giản là ngọn rau/ Cả một màu xanh quê nhà nơi biển cả” ( Những khay rau ở đảo Đá Nam ) . Rau, như mọi loại cây, thấm bao mồ hôi, công sức của người lính,
kiên cường như người lính:
Chắt
chiu từng hạt đất
Chắt
chiu từng giọt nước
Ngấm
đẫm mồ hôi người lính
Cây
nhọc nhằn bám cát
Rụt
rè xòe những bàn tay xanh
Gửi lại một tán xanh
Hầu
hết những bài thơ là để hát về đảo, và hát về Anh – Những người chiến sĩ trên
đảo :
Những
chàng trai không tiếc máu xương
Như
cây phong ba không bao giờ khuất phục
Như
vĩnh hằng màu xanh cây bão táp
Để
đất nước mãi bình yên
Trên vai là Tổ quốc
Canh
giữ biển trời Tổ quốc, tình yêu đất liền, yêu người con gái hậu phương người
chiến sĩ gửi vào “ Những bông hồng vỏ ốc” “Mang
dạt dào tình biển/ Từ sóng gió đại dương”. Họ gác đêm “ Chỉ
tiếng sóng và bóng cây làm bạn”. Và các anh thường gửi tình cảm
trong những giấc mơ:
Giấc
mơ nào cũng về góc vườn nhà
Vẫn
thèm gặp ngủ trên lá xanh
Một
màu nắng cũ
Sớm nay hoa nở
Đẹp
biết bao là những người lính trẻ :
Chiến
sĩ nâng hoa trên tay, sôi nổi hồn nhiên giữa biển trời. Mắt sáng tươi và làn da
đen sạm. Sôi nổi nói, sôi nổi tin rằng cây sẽ mọc. Sẽ kiên cường giữa sóng gió
đại dương. Dù đảo không có lớp đất lành, không có cả dòng nước nguồn dịu mát,
chiến sĩ sẽ lấy tình yêu thay đất, ủ mầm xinh nuôi cây lớn yên lành.
Hoa cúc trên đảo
Sơn Ca
Mấy
chục năm về trước, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết bài thơ “Đợi mưa trên đảo
Sinh Tồn” với những hình ảnh độc đáo :
Chúng
tôi sẽ trụi trần nhảy choi choi trên cát
Giãy
giụa tơi bời trên cát
Như
con cá rô rạch nước đón mưa rào
Úp
miệng vào tay chúng tôi sẽ cùng gào
Như
ếch nhái uôm uôm khắp đảo
Bây
giờ ta lại gặp “niềm vui” ấy trong thơ Bạch Liễu:
Về
niềm vui đón cơn mưa đến muộn
Lính
ùa ra như một bầy ếch cốm
Nhưng mưa hững hờ rơi tận mãi mép xanh
Vụng về
lính đảo
Những
chàng lính đảo trong liên tưởng so sánh
của nhà thơ, chính là những cây “phong ba chắn bão” cho đất nước bình yên:
Cây
nối tiếp hàng cây
Như
đồng đội ở bên đồng đội
Cây
nối tiếp hàng cây
Như đội ngũ đã sẵn sàng trận đánh mới
Gửi lại một tán
xanh
Sau chuyến đi thực tế trở về, Lưu Thị
Bạch Liễu đã chứng kiến những vẻ đẹp bình dị,
kì vĩ của biển đảo. Đặc biệt là những vẻ đẹp hiên ngang, cường tráng của
những chiến sĩ trên các đảo của quần đảo Trường Sa. Chị thổ lộ :
Còn
đẫm biển
Trên
mắt
Trên
môi
Cả những đầu ngón tay
Chạm vào nhau vẫn mặn
Nhớ biển 2
Chính
tình cảm sâu đằm, những ấn tượng mạnh mẽ, những xúc động sâu sắc đã làm cho hồn
thơ của chị thăng hoa. Tôi muốn dùng những lời giới thiệu trân trọng của nhà
xuất bản Đại học Thái Nguyên để kết cho bài viết này :
“ Tập thơ “ Trường Sa! Ơi Trường Sa!” của chị
là một trong số ít những tập thơ trên cả nước tập trung chỉ viết về đề tài Biển
Đảo quê hương. Đắm đuối và tài hoa, dịu dàng và dữ dội là những đặc điểm nổi
bật của hồn thơ này. Qua thơ chị, chúng ta thêm yêu quý, tự hào về những người
lính đảo đang ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc, từ đó suy nghĩ sâu sắc hơn
về trách nhiệm của mỗi người về chủ quyền biển đảo, về sự hi sinh của bao thế hệ để bảo vệ, giữ gìn một phần
“xương thịt” của Tổ quốc”.
Hà Nội, 9/10/2014
Đăng báo Quân đội nhân dân cuối tuần số 982 năm 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét