Thứ Năm, 26 tháng 5, 2016

MỘT NIỀM TIN BỀN BỈ



MỘT NIỀM TIN BỀN BỈ
Về tập thơ “Mãi tin vào những kiếp người” của Nguyễn Thế Kiên,
 nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2015
                                      Vũ Nho

Nguyễn Thế Kiên có thâm niên làm thơ khá lâu. Đây là tập thơ thứ tám của tác giả. Tập thơ này  phần lớn vẫn là lục bát, như bút danh kienlucbat  mà nhà thơ vẫn dùng để giao dịch trên hòm thư điện tử. Nó vẫn mang được những ưu điểm của thơ Nguyễn Thế Kiên. Thơ Nguyễn Thế Kiên là thơ thế sự.  Ăm ắp những chuyện đời. Ngổn ngang những lo toan. Sâu thẳm, vời vợi những nỗi niềm. Dù là lục bát hay tự do, tác giả đều thể hiện một niềm đau đáu về kiếp người, nhất là người nông dân, về nông thôn, nông nghiệp. Trong tập  thơ này có những bài về quê, về làng, về mẹ khá ấn tượng. Nói bằng câu thơ của Nguyễn Thế Kiên  thì  trong tập này “ Hồn nông dân vẫn chửa vơi tẹo nào”. ( Lời vợ) Con người gốc gác đồng chiêm ấy lên phố nhưng hồn vẫn để nơi làng, vẫn đau đáu buồn vui nơi bờ tre, gốc rạ, vẫn nhớ cái nghèo quê:
          Mười năm hè phố bước mòn
          Mồ hôi quê đặc quánh tròn lời ru
          Bấm chân xuống nẻo mịt mù
          Con đi bằng nỗi vô tư quê nghèo
                                Mẹ quê


Cái quê nghèo ấy  với những con người cần cù hai sương một nắng, lo lắng với bão giông, lũ lụt,  hạn hán, chưa lúc nào yên ổn, thong dong bởi:
                   Được mùa vẫn nặng ưu phiền
                   Mồ hôi đất cứ rẻ thêm mỗi ngày
                   Mất mùa quầng thẫm đắng cay
                   Bao toan tính vụn cuối ngày rụng rơi
                                      Nông thôn mới
Thật thấm thía  thân phận nông dân với “phận dưa” trong chuyện muối dưa – một món ăn quen thuộc ở thôn quê - của người mẹ:
                   Bao nhiêu mưa nắng lên ngồng
                   Mẹ ta muối cả mùa đông nghẹn vàng
                   Truân chuyên từ cánh đồng làng
                   Nén cơ cực với phũ phàng…phận dưa
                                                Dưa
Dĩ nhiên, quê không chỉ có mỏi mòn, cơ cực, long đong. Quê vẫn có những nét đẹp muôn đời giản dị:
                    Lúa thì con gái mơn man
                   Đàn trâu vẫn cứ nhênh nhang gặm chiều
                       
                       Vòng đê cổ tích hương vời vợi say
                                              Chuyện với thần nông
Và đám cưới quê  giản dị   với nụ cười hạnh phúc lứa đôi vẫn làm ấm lòng người với niềm tự hào không giấu diếm :
                   Hồng trên nét mặt quê nghèo
                   Men cay cất tự sớm chiều đồng chiêm
                   Nụ cười đôi lứa vừa têm
                   Làn môi thắm những vẹn nguyên thuở nào
                   Này này!
                       đất thấp trời cao
                   Duyên quê
                   Ở thế thời nào cũng xanh!
                                          Cưới quê
Dẫu sao, người con của làng quê đồng chiêm vẫn canh cánh bên lòng chuyện quê. Nhất là những đổi thay không theo mong muốn trong cơ chế khắc nghiệt của thị trường:
                   Mấy trăm năm… nghèo khó vẫn nết làng
                   Giờ trước ngõ giầu sang, dạm năm bè bảy mối
                   Bê tông hóa mấy ngàn năm lụt lội
                   Những trơn tru lấc cấc lên đời
                                           Gửi mẹ
Mê quê quá nên  người thơ  thấy bùn quê cũng đặc biệt “ Người bảo đục, kẻ bảo tanh/ Cứ lặng lẽ ủ hương thành mùa sen” ( Bùn…). Cả cái  thứ bỏ đi là rơm rạ cũng có thể làm thành món ăn khoái khẩu của người thành thị, nhưng ở đây là sự “hóa kiếp” của làng quê:
                   Quê hóa kiếp mấy lần trong gốc lúa
                   Hoan hỉ miệng người trên nước lửa…rưng rưng
                                        Nấm rơm
Và vì nặng tình quê đến thiên lệch như thế cho nên người viết có định kiến với “phố xá” cũng là điều có thể cảm thông:
                   Anh chìm nghỉm giữa cánh đồng con gái
                   Hương lúa thơm sau ngực áo phập phồng
                   Em tẩy sạch trong anh mùi phố xá
                   Ám vào anh sau năm tháng lên đồng
                                      Mùa xưa cho em
Bên cạnh làng quê,  nông dân, tác giả còn quan tâm đến bạn bè, đến nghiệp thơ, đến tình yêu. Có những chuyện lớn lao về đất nước, về thế sự, nhưng  cũng không ít “ những vụn vặt, những nhom nhem” ( lời thơ Nguyễn Thế Kiên) của đời thường. Chẳng hạn về  chuyện làm thơ. Phải là người chiêm nghiệm và trăn trở nhiều mới có thể hạ bút: “ Bao nhiêu kiếp chữ bơ phờ/ Phận người dát mỏng lên thờ thẫn đêm/ Trăng khuya khuyết lửa ngọn đèn/  Câu thơ hắt bóng lên thềm bình minh” ( Thơ). Hay là chuyện tình với góc nhìn hài hước : “ Trộn hờn dỗi với nghi ngờ/ Vài hôm tưởng bở thẫn thờ gọi : yêu/  Lời thì thật ý thì điêu/ Mang đêm khóan trắng cho điều thị phi […] Phím đêm tanh tách gõ liều/ Văn chương rổn rảng quanh điều viển vông” ( Lục bát yêu).
Tiếp nối truyền thống của Nguyễn Bính, của Phạm Công Trứ ( Đồng hương Nam Định) về lục bát, nhưng Nguyễn Thế Kiên có giọng điệu riêng. Mang câu lục bát nói lời thường dân. Tác giả đã đem ngôn ngữ nông thôn, dân dã vào thơ. Một loạt các từ có tính chất khẩu ngữ  như : Ô hay,Vậy nhé, Ừ thì, Em ạ, Kệ giời, Nào, Thôi, Lạy giời, Kệ đi em, Ô kìa, Thôi mà…được đem vào thơ một cách  tự nhiên, tạo cho thơ ca gần gũi tiếng nói đời thường, sinh động và thú vị.
 Nguyễn Thế Kiên “ mang theo một thúng ngôn từ chắt ra từ chắt ra từ gốc rạ đồng chiêm”. Nói nôm na là anh đã chọn lọc và dùng từ ngữ “đắc địa”. Những từ ngữ được dùng đúng chỗ, đúng lúc, trong thi cảnh phù hợp tạo ra ấn tượng mới mẻ và có sức cuốn hút. Ví dụ  : Chiều còn một nhúm trời xanh; Chiều tai tái một câu thề; Chiều đủng đỉnh tan dần trong mắt đục; Người vẫn cuối trời ngây ngây nắng; Đùng đùng tợp nửa cốc chiều,…
                                    Mắt này, phỗng tuổi bao nhiêu
                        sành sứ cả cả những điều dại khôn?
                                                       Với phỗng sành 
                                        Lúa thì con gái mơn man
                             Đàn trâu vẫn cứ nhênh nhang gặm chiều
                                          Chuyện với thần nông
Giọng giễu nhại, hài hước của Nguyễn Thế Kiên có nét duyên riêng. Tôi tán thành với nhận xét của nhà thơ Trần Quang Quý “Nguyễn Thế Kiên nói về sự làm thơ bằng một giọng hài, mà lạ” ( Thử nhấp chuột vào “Kiên lục bát”). Không chỉ về sự làm thơ, những chuyện quê, chuyện tình, chuyện “đình chiến với mình”…cũng một giọng hài và lạ như thế. Sự hài hước thường làm cho thơ dễ thân, dễ gần.
          Trong bài thơ có nhan đề “Bạn”, tác giả viết:
                   Hơ hơ…ta vẫn là mình
                   Cười phớ lớ dưới trời xanh với đời
Một niềm vui sống và tự tin. Như nhan đề của cả tập thơ “Mãi tin vào những kiếp người”. Tin yêu cuộc đời,  tự tin mình, tin vào những người đồng quê, vào “hồn rơm vía rạ”, rộng ra tin vào những kiếp người, tin bạn đọc. Tập thơ này là chứng tích của niềm tin đó.Trong khi nhiều bạn trẻ chạy theo mốt thời thượng, làm đủ loại thơ cách tân ( Thất bại thì nhiều, thành công hơi ít), việc trở lại với lục bát, kiên trì lục bát, và có thành công như Nguyễn Thế Kiên rất đáng ghi nhận và khuyến khích.
             Đã in trên Quân Đội Nhân Dân cuối tuần

2 nhận xét:

  1. Bài thơ hay lại thêm lời bình sâu sắc làm ta thấy rõ hơn hồn cốt, tâm tư của bài thơ này. Xin cảm ơn tác giả và bác Vũ Nho đã chắp canh cho bài thơ này chạm vào cảm xúc khó quên của người đọc.

    Trả lờiXóa