THƠ HAI-KƯ-NGẪM VỀ HƯỚNG TIẾP NHẬN
Trần Trung
1/Dường như đã thành qui luật của sự sáng tạo nghệ thật-nói
chung và Nghệ-Thuật-Thơ nói riêng,ấy là sự kiệm lời; Kiệm lời để khi câu chữ
của một thi phẩm khép lại, vẫn dư ba, ngân nga (ngỡ như khôn dứt!) trong lòng
người đọc. Và, cả người bình Thơ nữa.
Nhân loại từng tự
hào, từng kiêu hãnh về một thời đại Thơ Đường- với độ nén của câu chữ với những
thể: Thất ngôn bát cú; Tứ tuyệt (ngũ ngôn, thất ngôn)...Nhưng, cũng chính độ
nén của Thơ Đường lại đi liền với độ “ bó” của câu chữ, rồi niêm, rồi luật.
Thơ Hai-Kư của Nhật,
nếu xết về lịch sử ra đời, thì có lẽ cũng “ngang ngửa” với Thơ Đường-Theo cảm
tính-tương đối của Tôi. Nhưng, thứ thơ ra đời từ rất sớm này lại mang những đặc
điểm (cũng là phẩm chất!) rất riêng.Rất Hai-Kư-Nhật.
Tiền thân của Hai-kư
chỉ gồm 17 âm tiết (tiếng Nhật vốn đa âm), lại được sắp xếp theo 3 dòng (có
người còn cho là 3 câu), với trình tự : 5/7/5. Song, điều kì diệu là từ những
câu chữ rất khiêm nhường ấy lại mở ra ngỡ đến khôn cùng, mênh mang... trong
lòng độc giả về cuộc sống, sự sống cùng muôn vàn cảm suy trong thế giới tâm tư
của con người.
2/ Thơ Hai-Kư cũng không nằm ngoài qui luật của sự sáng tạo
nghệ thuật-Thơ của mọi quốc gia, mọi dân tộc. Nghĩa là, Thiên nhiên luôn là
nguồn đề tài; luôn vẫy gọi cảm hứng của Thi nhân. Với thơ hai-Kư, khái niệm
Quí-Ngữ (Ngôn từ, hình ảnh thơ thường “chạm” tới bốn mùa của Nhật Bản và Phương
Đông-trực tiếp hoặc gián tiếp).
2/1.Quí-Ngữ trong thơ Nhật, không chỉ dừng lại “mục sở thị”
(nhìn bởi mắt). Mà, hình ảnh thiên nhiên còn nhanh chóng “ lặn” sâu vào xúc
cảm-tâm trí của nhà thơ; Để rồi, tạo nên
chất tĩnh lặng thanh tao mà thâm trầm.Tạo nên chất Thiền kì lạ và mở ra trường
liên tưởng-Như không có điểm dừng. Có lẽ, theo Tôi cũng bởi thế, khi đọc
Hai-Kư, từ chuyển nghĩa của lời thơ Nhật sang thơ Việt, có thể thêm hoặc bớt
lời-Miễn là vẫn giữ được tinh thần thơ, hồn thơ nguyên tác. Xin phép được trích
dẫn ra đây một vài ví dụ trong cuốn “Thơ cho bốn mùa” do Hội hữu nghị Việt Nhật
ấn hành( Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin-Năm 2008) mà Tôi là một trong hai tác
giả chính được tham gia.
-Một bài thơ của nhà thơ Sai tô Mochiki-Bản dịch nghĩa:
“Tỉnh dậy từ
giấc ngủ mùa đông
Những con
ếch nhảy nhót
Trên lớp
tuyết mỏng cuối cùng
Và,
Trải rộng
thân chúng”
Khi chuyển sang thơ
Việt, Tôi mạnh dạn thêm một hình ảnh-một lớp nghĩa nữa, và Tôi dịch là:
“Bừng
dậy sau giấc ngủ đông
Ếch
mải hồn nhiên nhảy nhót
Trên
lớp tuyết mỏng tan dần
Sàn
nhảy rung lên lần chót”
Từ lời dịch chuyển
thành thơ ấy lại tiếp là lời bình của Tôi :
“Ếch đang hân hoan
nhảy nhót trong vũ điệu đón xuân, thì cũng là thời khắc “Lớp tuyết mỏng tan dần”.Giản
đơn thôi:băng tuyết trên sông, sau ngày đông lại được trở về với dòng chảy hiền
hòa, ấm áp. Và, như thế “trên lớp tuyết mỏng...”, cũng sắp chấm dứt vũ điệu
trên tuyết băng của những chú ếch hồn nhiên. Lời dịch thơ ở câu cuối có sự dịch
chuyển từ “lớp tuyết mỏng cuối cùng” thành một không gian mới, cũng có thể gọi
là một không gian-bản lề-khép mở-buồn vui:
“Trên
lớp tuyết mỏng tan dần
Sàn
nhảy rung lên lần chót”
(Thơ
cho bốn mùa-Trang 84-85).
2/2.Cũng chính bởi độ nén của câu chữ, cho nên cần cảm nhận
về sự vận dụng “quí ngữ” trong thơ Hai-Kư để diễn tả trực tiếp hoặc gián tiếp
cảnh sắc thiên nhiên theo qui luật của bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Thì, khi
chuyển dịch sang thơ Việt, chuyện thêm hoặc có thể bớt là tùy thuộc vào “độ mở”
trong cách cảm nhận của người dịch chuyển. Miễn là, như đã nói ở trên vẫn giữ
được tinh thần thơ, hồn thơ nguyên tác. Xin được đưa ví dụ từ bài Hai-Kư về chủ
điểm mùa xuân của Hoàng tử Shi ki (?- 716) với phần dịch nghĩa:
“Dòng
thác đổ dồn gấp gáp
Xuống
những tảng đá và xung quanh
Những cây dương xỉ nhỏ đã trổ những chồi non
Mùa
xuân đến.”
Bài thơ trên đã
được dịch thành thơ và kèm với lời bình giải (một phần trong nội dung) như sau
:
“
Thác cao đổ tràn sinh lực
Nước choàng đá tảng...vây quanh
Dương xỉ trổ đầy chồi nõn
Xuân xanh !”
“Bài thơ kết lại
trong hình ảnh với những tiếng “mùa xuân đến”. Lời dịch thơ được “co” lại trong
hai tiếng “xuân xanh!” như muốn diễn tả cái nhanh, cái mạnh, cái sung mãn tràn
đầy trong vẻ hoang sơ, tinh khôi của mùa xuân-sự sống.” (Thơ cho bốn mùa-Trang
29-30).
2/3.Các thi sĩ Nhật làm thơ Hai-Kư, khi hướng tới thiên
nhiên trong vẻ đẹp muôn hình vạn trạng của tạo hóa-tất nhiên không dừng ở vẻ
ngoài của mà tả. Quan trọng là sự lan tỏa của sức gợi... Mà, đã là gợi ắt phải
ra tinh chất riêng của thơ Phương Đông và nhất là phải gợi ra điệu cảm, điệu
Hồn-Nhật. Tôi muốn nói tới ý niệm tinh tế mà thâm trầm trong thơ Hai-Kư-ý niệm
gắn với thế giới từ thiên nhiên và đồng thời, đồng hiện với thế giới mang sắc
vẻ tâm linh gợi ra từ những bài thơ Hai-Kư.Thế giới của thiên nhiên in đậm mầu
sắc tâm linh ấy trong thơ Nhật vắt theo thời gian, theo lịch sử Cổ-Kim của loại
thơ này.Thế nên, bức tranh-tâm cảnh của Hai-Kư cũng rộng mở nhiều chiều trong
tiếp nhận, trong giải mã và liên tưởng cho người đọc và cả người bình nữa.
Khi góp lời thẩm bàn
về vẻ đẹp riêng trong ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Tôi từng nhận định: ca
từ trong những nhạc khúc của Trịnh rất đỗi mông lung và vô cùng thân phận. Từ
cảm thức ấy, đọc để cảm nhận về thơ Hai-Kư, Tôi cũng nhận ra rằng: Thiên nhiên
trong thơ Hai-Kư nếu mang sắc mầu tâm linh thành kính hay huyền hồ hư thực cũng
không tách rời với cảm quan về Cõi-Đời-Người, về thân phận con người. Xin được
gửi trao một cảm nhận về bài thơ Hai-Kư của nữ sĩ I zu mi Shi ki bu trước những
con đom đóm chập chờn trên sông:
-Dịch nghĩa:
“Trong những con đom đóm trên sông
Tôi
dường như thấy linh hồn mình, ướt đẫm nỗi buồn,
Trào dâng niềm khát khao từ thân thể”
-Dịch thơ:
“Đom
đóm chập chờn trên sông
Chúng mang linh hồn tôi đó
Linh hồn đẫm ướt sầu vương
Tận cùng khát khao mờ tỏ”
-Và lời bình:
“...Trong trạng thái
mê tỉnh, với nỗi bi ai cực điểm, bà (Shi ki bu) như chơi vơi bởi cảm giác thoát
xác-Linh hồn của kẻ đang đớn đau, tan nát như nhập vào những con đom đóm ẩn
hiện trên sông. Thứ ánh sáng chờn vờn ẩn hiện ấy, như một tiếng tâm sự riêng
day dứt và cũng thổn thức lạ lùng. Lời thơ của Shi ki bu như cũng chập chờn
vọng về từ đường biên mong manh của hai cõi Âm-Dương: Nữ sĩ như đang thầm thì
với lòng mình hay đang gửi tâm tình chơi vơi tới một nơi nào xa xăm lắm:
“Đom đóm chập chờn trên sông
Chúng mang linh hồn tôi đó”
Lời thơ thoảng nhẹ
như hơi của gió đêm mà sao như cũng tỏa lan sang ta cảm giác rợn buồn thấm
thía.
Một điều thật kì lạ,
huyền bí là sự lên tiếng của linh hồn ngợp đầy buồn đau và cô đơn kia, còn tiếp
tục khai mở rất thành thực một trạng thái thiên lương, tốt lành mà chỉ thấy có
được của những con người yêu thương cuộc sống-Đấy là niềm khao khát. Ở cả hai
cực cảm xúc : đau đớn, buồn bã cùng khát khao tha thiết, được nhà thơ tự bộc
bạch một cách thành thực nhất. Và, hình như cũng gấp gáp và khẩn thiết nhất,
gửi lại cho người, cho đời :
“Linh hồn đẫm ướt sầu vương
Tận cùng khát khao mờ tỏ”. ( Thơ cho bốn mùa-Trang 206-207).
3/Thơ Hai-Kư-sự tiếp nhận từ phong tục tập quán gắn với lễ
hội truyền thống có tự xa xưa.
Đời sống văn hóa của
mỗi dân tộc trong sự hình thành và phát triển, thường song tồn với các phong
tục, với các lễ hội truyền thống của họ.Với Nhật bản, lễ hội cổ xưa của họ cũng
thật sinh động và phong phú. Một trong số những lễ hội gần gũi, giản dị mà cũng
rất thịnh hành, rất thiêng liêng của Nhật, phải kể đến đó là Lễ Hội-Búp Bê
(Ngày mồng 3 tháng 3-Theo lịch Nhật).Những con búp bê được những người thợ thủ
công làm bằng giấy hay bằng vải, một mặt được đặt thành kính trong các buổi cầu
nguyện của Đạo Shin tô-nguyện cầu cho sự tinh khiết trong lành, an lạc cho con
người trong cuộc sống. Một mặt khác nữa: từ hình ảnh, hình hài của những con
búp bê xinh đẹp, dễ thương...từ xa xưa, người Nhật còn muốn gửi gắm một thông
điệp tâm tình-đó là niềm tin yêu và hi vọng tốt lành, cao quí tới những em bé
gái; tới những người phụ nữ Nhật bản; tới những bà mẹ-họ sẽ mãi mãi xưa sau là
những người đẹp đẽ và cao sang. Cũng bởi thế, hình ảnh những con búp bê xinh
đẹp bằng vải, bằng giấy kia đã thực sự “vào đời” để trở thành biểu tượng của
Cái-Đẹp-Vĩnh-Hằng. Bài thơ Hai-Kư của Ma sao ka Shi ki về “Những con búp bê
giấy” mang vẻ đẹp giản dị mà sâu xa, chứa
đựng ý tưởng và ý nghĩa nhân văn thấm thía như đã gợi ra trên:
-Dịch nghĩa:
“Những búp bê giấy
Nhìn giống như thể
Chúng muốn được yêu”
(Ma sao ka Shi ki, 1867-1902).
-Dịch thơ:
“Búp bê bằng giấy
Nhìn xem
Chúng khát thèm yêu như thật”.
-Lời bình:
“Hình ảnh những con
búp bê, vào thời Trung cổ ở Nhật gắn với tập tục, với lễ hội được định ra hàng năm( ngày3/3).Búp bê giấy
được dùng trong các buổi cầu nguyện của đạo Shin to và các buổi tẩy uế.Sau đấy,
búp bê được thả xuống sông. Như vậy, búp bê gắn với đời sống tinh thần, gắn với
thế giới tâm linh, gắn với ước nguyện đẹp đẽ, trong sáng của người xưa.
Bài thơ này của Shi
ki được đánh giá như một sự táo bạo khác thường. Sự khác thường và táo bạo có
lẽ là ở chỗ: Nhà thơ không tâm linh hóa và cũng không ngưỡng vọng hình ảnh này
như một kí thác, trao gửi...
Búp bê giấy được nhà
thơ kéo trả về với đời sống nhân sinh. Cái cách cảm nhận những “búp bê bằng
giấy”thật gần như chính hơi thở của đời người, như chính cảm giác khát thèm
được sống, được yêu thực sự. Trong con mắt đầy ưu ái và nhân văn của người nghệ
sĩ, chẳng còn có búp bê giấy nào cả. Chỉ thực sự sống động hình ảnh những búp
bê bằng da, bằng thịt-con người với nỗi khát thèm yêu đương thành thực. Và, nhà
thơ nhắc chúng ta hãy đến và rung động với một điểm nhìn thật gần :
“Nhìn
xem
Chúng khát thèm yêu
Như thật!”
(Thơ cho
bốn mùa-Trang 64-65).
4/Vẻ đẹp trong độ mở và sức gợi của Tinh chất-lưỡng tính
trong thơ Hai-Kư.
Đề cập tới ý niệm Tinh chất-Lưỡng tính trong thơ Hai-Kư, Tôi
muốn nói tới trạng thái thuộc về cảm xúc của các thi nhân khi diễn tả những mặt
vừa trái chiều lại vừa đồng nhất, đột hiện trong những khoảnh khắc tâm tư của
mình. Chính điều đó tạo nên vẻ đẹp riêng trong sáng tạo nghệ thuật; cũng đồng
thời đem đến cho thơ Hai-Kư sắc diện của sự giản dị, chân thật mà cũng đầy vẻ
huyền ảo...đến độ ám ảnh lòng người-trước hết là từ trái tim đa cảm, đa suy của
Thi sĩ. Xin được trích điểm ra đây hai bài thơ của hai nhà thơ mà Tôi tâm đắc
bởi Tinh chất-Lưỡng tính:
*Bài một của Ki ka ku (1661-1707)
-Dịch nghĩa :
“Người
phụ nữ này
Người đã thắp sáng đêm mùa xuân
Con gái của tôi !(?)”
-Dịch thơ:
“Đêm xuân...Trở mình...Đêm sáng
Trước nàng thiếu nữ kiêu sa
Người ấy...Là con gái Ta !(?)”
-Lời bình :
“ Bài thơ như
bất chợt bùng ra trong cảm giác chập chờn say tỉnh, khi nhà thơ rạo rực mà nhận
ra một đêm huyền diệu đang kề cận bên mình-kề cận ấm áp, sáng láng như cố nhân
vậy.Ấy là khi “Đêm xuân...trở mình...đêm sáng”.
Bài thơ chuyển từ
cảm giác sang thức ngộ và ngỡ ngàng, thoáng chút sững sờ trước hình ảnh thanh
tân của một thiếu nữ hiện hữu giữa đêm xuân. Hẳn trong xúc cảm trào dâng của
nhà thơ, “đêm xuân... trở mình” như đang quyện hòa, rạo rực cùng đêm xuân-Thiếu
nữ.
Tương truyền rằng
bài thơ này ra đời trong một chuyến Ki ka ku du xuân cùng với cô con gái ông, đang
độ tuổi hoa niên. Ông đã say túy lúy và về nhà cùng cô con gái mình trên một
chiếc kiệu...
Nhà thơ ngỡ ngàng
khi nhận ra những nét đẹp đầy nữ tính của chính con gái mình.. Để rồi,thi nhân
bật thốt lên tiếng lòng mình trong trạng thái kiêu hãnh, mơ màng và chập chờn
say tỉnh: “Người ấy...Là con gái ta! (?)”.
Bài thơ của Ki ka ku
là những lời gợi tình xuân, gợi niềm rạo rực tình ái đan hòa với những xúc cảm
phức điệu tự tâm hồn Người cha-Thi sĩ.”
* Bài thứ hai của Yagi Zukichi (1898-1927).
-Dịch nghĩa:
“Tôi mò mẫm nỗi buồn như vuốt vú
Và nếu tôi rời khỏi nỗi buồn
Tôi sẽ chết chăng?”
-Dịch thơ:
“Đê
mê mò mẫm nỗi buồn
Tôi như ve vuốt nõn nường tuyết lê
Nỗi buồn ấy nếu rời đi
Hỏi
rằng tôi sống làm chi trên đời.”
-Lời bình(trích):
... “Người chuyển
dịch sang thơ muốn cho cái thật đi liền với cái nhã. Và, cái cụ thể mộc mạc
chuyển sang cách giãi bày gián tiếp thanh cao, nên chuyển hóa thành một cặp lục
bát. Có thể vì thế mà làm giảm đi vẻ thô ráp, chân mộc từ lời nguyên tác: “Đê
mê mò mẫm nỗi buồn/Tôi như ve vuốt nõn nường tuyết lê”.
Nỗi buồn là một
trạng thái thuộc về cảm xúc tâm tình của con người, khi con người phải gặp và
sống trong hiện trạng không bình an. Điều ấy, vốn là lẽ thường tình muôn thuở
trong sự sống của con người. Cái sự lạ lùng trong lời tâm tình này là ở chỗ,
trước hết đây là lời bộc bạch rất thành thực của nhân vật trữ tình qua lời xưng
“tôi”.Mà sao nỗi niềm buồn vốn tự có trong tâm, lại phải “mò mẫm”...
...Sự bất ngờ, thú
vị đến sững sờ, ấy là khi nhà thơ đem ra cái vế dùng để so sánh-rất gọn, rất
thật, chỉ trong ba tiếng: “Như vuốt vú”...Tìm kiếm, mò mẫm nỗi buồn hóa ra là
được sống đúng với con người thật của mình với những cảm giác đê mê ngọt ngào
tuyệt đích...Thế nên, ta mới càng hiểu một cách sâu sắc và thấm thía như lời
tuyên ngôn của nhà thơ trong câu thơ cuối:
“Nỗi buồn ấy nếu rời đi
Hỏi rằng tôi sống làm chi trên
đời.”
Có lẽ đây là một
cách khám phá và định nghĩa về con người cùng nỗi buồn độc đáo, ấn tượng đến lạ
lùng, nếu chưa muốn nói là “Độc nhất vô nhị” trong thơ ca !(?).
***
Đứng trước những vần
thơ Hai-Kư của Nhật Bản tự cổ chí kim từ bao nhiêu thế hệ nhà thơ, Tôi tự thấy
mình thật nhỏ bé như đứng trước biển lớn không tận với lớp lớp sóng xô và trải
rộng mênh mang... Bởi, loại thơ được xếp vào loại ngắn nhất thế giới này lại
mang tầm cỡ, vóc dáng của một chàng khổng lồ, giầu nội lực...
Với một chút ngẫm
ngợi để tự tìm ra cho mình chiều hướng tiếp nhận thể thơ đặc biệt và đặc sắc
này, tôi chỉ dám khơi mở bằng khả năng trực cảm (nếu có) mang sắc màu cùng diện
mạo cá nhân mà thôi.
Một số thi liệu được
vận dụng trong bài viết này cũng còn hết sức sơ giản. Chắc hẳn và chưa thể bao
quát được lượng bài Hai-Kư vô cùng dồi dào, phong phú từ xưa đến nay của chính
xứ sở hoa anh đào này; Mặt khác cũng chưa có khả năng và điều kiện bàn tới, bàn
sâu về vẻ đẹp của Hai-Kư qua các sáng tạo nghệ thuật của các thi sĩ-các cây đại
thụ của thơ ca Nhật nói chung và thơ Hai-Kư nói riêng như Mat su Ba sho, Yosa
Bu son, rồi Ma sao ka Shi ki, Yosano A kito, Sai to Mokichi...vân vân.
Bài viết nhỏ gọn
này của tôi cũng mong muốn được đón nhận và chỉ giáo của các bậc thâm hậu về
văn hóa, về văn chương Nhật Bản cùng các bạn hiểu biết, yêu quí thơ Nhật-Đặc
biệt là thơ Hai-Kư. Xin trân trọng cảm ơn!
HÀ
NỘI, 26/9/2016.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét