Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2016

GHI Ở THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ của Nguyễn Thị Việt Nga với lời bình




GHI Ở THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ

                                                     Nguyễn Thị Việt Nga

Những gương mặt sạm đen khói súng
Hiện lên trong nắng ảo mờ
Những ánh mắt bao năm còn khắc khoải
“Có câu này chúng tôi muốn hỏi nhà thơ”

Đất mênh mông, cỏ run mềm từng sợi
Những non tơ từ máu đỏ mà xanh
Mây Thành cổ từ thịt xương mà trắng
Nước Thạch Hãn từ cay đắng mà lành

Những ánh mắt bao năm còn khắc khoải
“Có câu này chúng tôi muốn hỏi nhà thơ”
 Vâng, câu hỏi. Tôi chờ nghe câu hỏi
“Con người đã tìm ra cách gì để sống với nhau chưa?”

Lời bình của Nguyễn Thị Lan
Bài thơ “Ghi ở Thành cổ Quảng Trị” của tác giả Nguyễn Thị Việt Nga nằm trong tập thơ “Ra ngõ ngóng mây” (NXB Văn học, 2012). Có thể đây chưa phải là bài hay nhất của tập thơ, nhưng nó khá tiêu biểu cho giọng thơ của tác giả ở tập thơ này.
“Ghi ở Thành cổ Quảng Trị” như một biên bản ghi lại những điều mắt thấy, tai nghe (trong tâm tưởng) của người làm thơ ở Thành cổ Quảng Trị.
Bắt đầu là khổ một:
Bài thơ gây “sốc” cho độc giả - “cú sốc thẩm mỹ” ngay từ những câu thơ đầu tiên:
“Những gương mặt sạm đen khói súng
Hiện lên trong nắng ảo mờ”

Vong hồn những người lính đã hy sinh ở Thành cổ Quảng Trị “hiện lên trong nắng ảo mờ” với khuôn mặt “sạm đen khói súng”. Họ như vừa bước ra từ chiến trường khói lửa. Trong cõi yên nghỉ vĩnh hằng ấy, cái gì đã khiến các vong hồn phải hiện lên gấp gáp giữa thanh thiên bạch nhật? Hai câu thơ đầu dự báo một cái gì không yên.
Hai câu thơ tiếp theo đã trả lời câu hỏi ấy:
“Những ánh mắt bao năm còn khắc khoải
Có câu này chúng tôi muốn hỏi nhà thơ
Nhà thơ đã “nhìn thấy” ánh mắt “khắc khoải” và “nghe thấy” câu hỏi khẩn thiết của vong linh những người lính.
Bài thơ đã có bốn câu thơ mở đầu xứng đáng. Nó đi thẳng vào đề. Người xưa gọi là “mở cửa thấy núi”. Nó tạo nên độ căng trữ tình của toàn bộ thi phẩm.
Khổ thơ thứ hai:
“Đất mênh mông cỏ run mềm từng sợi
Những non tơ từ máu đỏ mà xanh
Mây thành cổ từ thịt xương mà trắng
Nước Thạch Hãn từ cay đắng mà lành”
Mạch thơ chuyển sang ý khác. Bốn câu thơ là một phác thảo về Thành cổ Quảng Trị, một không gian yên bình với đất, trời và nước. Đất thì “mênh mông” với cỏ “non tơ” “run mềm từng sợi”. (Tác giả đã chọn được một chi tiết tiêu biểu. Những ai đã từng đến Thành cổ Quảng Trị sẽ không khỏi ngạc nhiên, ngay giữa những ngày hè khô khát của gió Lào, thật kỳ lạ cỏ dưới chân Thành cổ vẫn xanh mơn mởn giữa bốn bề. Người ta nói đó là biểu tượng, là anh linh của những người đã khuất).
Vâng! Đất thì với cỏ xanh, trời thì mây trắng và nước sông Thạch Hãn thì mát “lành”.
Nhưng thiên nhiên an lành đó của ngày hôm nay tương phản dữ dội với hiện thực khốc liệt của ngày hôm qua. Nhà thơ khẳng định (và cũng là nhắc nhở những người sống): màu xanh non tơ của cỏ ở nơi đây có từ “máu đỏ”, mây trắng nhởn nhơ bay trên Thành cổ có từ “thịt xương” của những người đã ngã xuống và nước sông Thạch Hãn mát lành hôm nay có từ những “cay đắng” của ngày hôm qua.
Tưởng như ý thơ của khổ thơ thứ hai chẳng có mối liên hệ gì, chẳng “dính" gì với ý thơ của khổ đầu. Nhưng thực ra nó là hệ quả của nhau. Những người lính đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, cả tính mạng của mình để cho mảnh đất này mãi mãi bình yên, để cho người khác được sống. Chính vì vậy, họ có đủ quyền, đủ tư cách để hỏi những người đang sống. Và câu hỏi của họ chắc phải quan trọng lắm, lớn lao lắm.
Khổ thơ thứ ba:
Những ánh mắt bao năm còn khắc khoải
“Có câu này chúng tôi muốn hỏi nhà thơ”
Vâng,  câu hỏi. Tôi chờ nghe câu hỏi
“Con người đã tìm ra cách gì để sống với nhau chưa?”
Ngôn ngữ thơ vốn cô đọng. Có thể diễn giải câu hỏi đó là: con người đã tìm ra cách để sống với nhau cho tốt đẹp, cho tử tế, cho nhân văn chưa, hay còn vô cảm, còn hằn học, thù ghét nhau, còn “ăn thịt” nhau (Lời Lỗ Tấn)
Đây là một câu hỏi vượt ra ngoài khuôn giới một câu hỏi bình thường, nó mang ý nghĩa thế sự, nhân sinh. Câu hỏi đó gieo vào lòng người đọc bao liên tưởng, suy nghĩ.
Hơn nữa, người hỏi lại là người đã đem cả sinh mạng của mình để mang lại sự sống cho người được hỏi, vì vậy câu hỏi đó càng bao hàm nhiều ý nghĩa:
1. Nó là niềm trăn trở trước quan hệ ngày càng có chiều hướng xấu đi giữa người với người. Qua câu hỏi đó, quan hệ con người hiện lên đau đớn, xót xa, mệt mỏi. Hỏi mà như khẳng định, như trách cứ rằng người sống chưa tìm được cách sống tốt với nhau.
2. Nó còn là một lời cảnh báo, nó ngầm báo một nguy cơ tha hoá. Câu hỏi là một sự thức tỉnh lương tâm. Và đó chính là sự kiêu hãnh của thơ.
3. Về phía người làm thơ: Câu hỏi đó chỉ có được khi nhà thơ là người đã có kinh nghiệm sống, từng trải nghiệm trong quan hệ với con người. Nó cho thấy sự trăn trở và chút nỗi niềm cay đắng thất vọng trước tình người, nỗi đau nhân sinh và nỗi buồn của người viết. Nó là tiếng kêu hối thúc của chính tác giả... Nhưng cả hai lần hỏi vẫn khó có một câu trả lời.
Câu trả lời vẫn để ngỏ.
Bài thơ đóng lại bằng câu hỏi đó.
Giọng điệu của thơ là buồn sâu lắng, chất chứa suy tư. Nó có cái gì thảng thốt và đắng đót. Đây là một đặc trưng biểu cảm rất riêng của tập thơ “Ra ngõ ngóng mây” của Việt Nga, đặc biệt ở bài “Ghi ở Thành cổ Quảng Trị.
Bài thơ cô đúc, chặt chẽ, cấu tứ kiệm lời. Tác giả tỏ ra khá làm chủ câu chữ của mình. Hơi thơ chắc khoẻ đi thẳng vào lòng người đọc. Thi phẩm hàm súc về tư tưởng. Đây là cách nói mới giầu nội hàm tư tưởng hơn là cách nói cũ nghiêng về bộc lộ cảm xúc của người viết. Để bài thơ giàu nội hàm tư tưởng, hình tượng trong bài thơ mang kích thước lớn lao từ thiên nhiên đến con người. Thiên nhiên thì mang tầm vóc vũ trụ với trời mây,mặt đất, sông nước. Con người thì với những hy sinh lớn lao và cả những trăn trở, mong ước cao cả.
Bài thơ viết về Thành cổ Quảng Trị, lấy nơi nghĩa trang chung của hàng vạn người lính làm bối cảnh, nhưng thi phẩm vẫn xôn xao những điều chẳng bao giờ yên ả. Nó day dứt người đọc. Nó mở một câu hỏi lớn về phía người đọc. Nó lay động người đọc ở những cảm xúc lớn lao. Và đó chính là thành công của bài thơ “Ghi ở Thành cổ Quảng Trị” của tác giả Nguyễn Thị Việt Nga.
Hải Dương, mùa Xuân 2013

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét