THẦY LƯƠNG DUY THỨ
THẦY TÔI – HÀNH TRÌNH KHÔNG MỎI…
- Đinh Phan Cẩm Vân –
GS. LƯƠNG DUY THỨ
Không
hiểu sao mỗi lần nghĩ về thầy tôi lại nhớ câu nói của Lỗ Tấn: Kỳ thực,
trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi; tôi
lại nhớ Thục đạo nan của Lý Bạch: Đường Thục khó, khó như lên trời xanh…
Những
năm 80 của thế kỷ trước, chúng tôi được gặp thầy nơi giảng đường Đại
học, và cứ ấn tượng mãi về thầy với cái tên trùng với tên một nhân vật
của Nam Cao trong tiểu thuyết Sống mòn: Thầy giáo Thứ. Cuộc sống đầy khó
khăn, thiếu thốn bấy giờ cùng với dáng vẻ, cách ăn mặc giản dị, có phần
đơn sơ của thầy, tưởng như chân dung “giáo khổ” của Nam Cao vẫn còn
nguyên vẹn, bằng xương bằng thịt. Cơ duyên đưa đẩy khi tôi chọn học
chuyên ngành văn học Trung Quốc, và lại yêu thích Hồng lâu mộng nên được
thầy nhận hướng dẫn Luận văn. Khoảng cách thầy trò bấy giờ rất vời vợi,
phần vì cách biệt tuổi tác, vì uy tín khoa học của thầy và vì tôi cũng
thụ động. Tôi chỉ biết cắm cúi học hành, làm việc, chẳng bao giờ dám hỏi
thầy, hoặc trò chuyện. Thầy cũng ít nói. Đến nhà thầy, một căn hộ thuộc
khu tập thể cán bộ công nhân viên chức Đại học Sư phạm Hà Nội ở Đồng
Xa, tôi càng ấn tượng về sự đạm bạc, thanh bần của nghề giáo. Cũng như
gia đình tôi vậy, bố mẹ tôi cũng là nhà giáo. Và tôi hiểu, linh hồn, sức
sống, sự giàu có của một gia đình nhà giáo chính là ở những cuốn sách, ở
cái giá sách kia. Tôi bị hấp dẫn ngay giá sách của gia đình thầy. Không
phải ở sự đồ sộ mà vì những đầu sách bằng tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp …
tôi chẳng hiểu gì nhiều nhưng thực sự bị mê hoặc. Tôi cảm nhận được vị
nắng gió trong những cuốn sách đã theo thầy có lẽ từ thời là sinh viên
Đại học Trung Sơn (Trung Quốc), rồi thời kỳ thầy giảng dạy ở Đại học Sư
phạm Vinh, Đại học Sư phạm Việt Bắc. Những cuốn sách hành trang cuộc
đời, sau này đưa thầy trở thành một trong những Giáo sư đầu ngành ngành
Văn học Trung Quốc.
Một
trong những mong mỏi của thầy là có học trò nối bước con đường giảng
dạy, nghiên cứu văn học Trung Quốc. Có lần thầy nói đùa với tôi: ngành
Văn học Trung Quốc sắp tuyệt tự rồi! Tốt nghiệp xong, tôi về dạy tại Đại
học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội, không thành truyền nhân của thầy. Dẫu
không có cơ duyên gặp lại thầy ngay trên hành trình chữ nghĩa nhưng tôi
lại có duyên gặp thầy trên con đường nhỏ từ khu Đồng Xa về phía hai
trường Đại học nằm kề nhau: Đại học Sư phạm Ngoại ngữ và Đại học Sư phạm
Hà Nội. Vốn là, gia đình tôi ở cạnh khu tập thể Đồng Xa, hai thầy trò
vài lần gặp nhau cùng đi bộ, băng qua cánh đồng rau muống sang trường.
Thầy vẫn giản dị trong bộ quần áo quen, nụ cười hiền lành và ánh mắt
sinh động. Khi tôi có quyết định vào giảng dạy ở Đại học Sư phạm Thành
Phố Hồ Chí Minh, chuyên ngành văn học Trung Quốc, thầy rất vui mừng,
chia sẻ, giúp đỡ tôi rất nhiều về giáo án, tài liệu… Trước khi rời Hà
Nội, căn nhà ở khu tập thể Đồng Xa của gia đình thầy thành chỗ đến thân
thuộc của tôi. Bấy giờ, cả hai thầy trò đều không nghĩ rằng, chỉ vài năm
sau, thầy cũng vào Thành phố Hồ Chí Minh, trở thành giảng viên Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Những
ngày đầu “nhập cư” Sài Gòn cuộc sống của thầy không khỏi gian nan, dẫu
đất phương Nam nồng hậu đón chào. Thầy chưa có nhà, lúc ở nhờ, lúc ở
thuê, chuyển nhà ba bốn bận, sau vài năm mới mua được căn hộ chung cư
khu vực chợ Bà Chiểu. Và đến khi mua được nhà, thầy cũng mới rời xe đạp
chuyển sang đi xe máy…. Tôi chứng kiến những buổi tập xe máy của thầy,
vì ông xã tôi được thầy tin tưởng giao nhiêm vụ “gia sư” cho thầy! Những
vòng bánh xe đầu tiên còn gượng gạo, lúng túng, dần dần tự tin hơn,
chính xác hơn và thầy đã hòa mình vào được guồng quay vội vã của thành
phố. Thời kỳ ở Sài Gòn có lẽ là thời kỳ làm việc sung sức nhất, thăng
hoa nhất của thầy. Thành phố năng động cuốn con người vào nhiều công
việc đa dạng, phong phú. Thầy dạy tiếng Hoa ở các trung tâm, mở lớp dạy
tiếng Hoa ở nhà. Tôi là học viên trung thành của lớp học tiếng Hoa ở
nhà. Khi tiếp xúc nhiều hơn, thân hơn mới thấy thầy không phải như lời
nhận xét đùa vui, có phần “tếu táo” của một đồng nghiệp: Trông Lương Duy
Thứ cứ cổ lỗ như Khổng Ất Kỷ ấy nhỉ! Lớp học tiếng Hoa nho nhỏ ở nhà
thầy thỉnh thoảng lại râm ran tiếng cười vì những câu chuyện vui thầy
kể, vì cách nói chuyện rất dí dỏm mà sâu sắc của thầy. Có lần thầy hỏi
về loài hoa mà mỗi người yêu thích, đến khi chúng tôi hỏi lại: Thầy
thích hoa gì? Thầy cười vang chỉ lên góc nhà nơi có chùm hoa nhựa rủ
xuống rồi nói: 假 花 (hoa giả)!
Thầy
bắt đầu bước vào thị trường sách thành phố bằng một công trình dịch
thuật. Một nhà sách lớn đã đặt thầy dịch bộ Đại cương lịch sử văn hóa
Trung Quốc (Ngô Vinh Chính chủ biên). Bộ sách ra đời năm 1994, thúc đẩy
hướng nghiên cứu về văn hóa của thầy. Năm 1996, thầy chủ biên giáo trình
Đại cương văn hóa phương Đông. Cuốn giáo trình đến nay đã được bổ sung,
tái bản ba lần. Lần lượt sau đó là các công trình nghiên cứu về văn học
Trung Quốc: Thi pháp thơ Đường, Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển
Trung Quốc, Lịch sử văn học Trung Quốc, Thi pháp Lỗ Tấn, Lỗ Tấn – tác
phẩm và tư liệu...; các tuyển tập thơ ca, tiểu thuyết Trung Quốc: Tuyển
tập thơ ca cổ điển Trung Quốc, Tiểu thuyết cổ Trung Quốc; nhiều công
trình dịch thuật giá trị như Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc (Lỗ Tấn,
dịch chung), Hán văn học sử cương yếu (Lỗ Tấn), Trung Quốc sau hơn mười
năm cải cách... Những giáo trình, chuyên luận của thầy đều là những tài
liệu mẫu mực, kinh điển về văn hóa, văn học Trung Quốc.
Đối
với tôi, thầy vẫn dành những quan tâm đặc biệt trong việc nâng cao
chuyên môn. Tôi được làm việc chung với thầy trong lần biên soạn bộ Tiểu
thuyết cổ Trung Quốc (1996). Không dừng ở văn học cổ điển, thầy cũng
rất nhạy bén nắm bắt xu hướng tiếp nhận văn học hiện đại Trung Quốc thập
niên 90 ở Việt Nam. Thầy tuyển dịch Truyện ngắn hiện đại Trung Quốc
(1998). Và một kỷ niệm khó quên với tôi, sau khi Một nửa đàn ông là đàn
bà của Trương Hiền Lượng đến Việt Nam xôn xao dư luận, thầy bảo tôi tìm
đọc tác phẩm Phong cách nam nhi của ông và viết bài. Đó là lần đầu tiên
bài viết của tôi được đăng trên báo Văn nghệ của Hội nhà văn Việt Nam.
Đó cũng là lần đầu tiên thầy cho tôi hiểu thế nào là trực giác. Và thầy
khuyên trong nghiên cứu văn chương nên tin vào trực giác. Cứ thế, những
bài học nhẹ nhàng “không giảng đường” thành cẩm nang theo tôi suốt đời.
Hành
trình của thầy trải khắp ba miền Bắc Trung Nam. Cứ ngỡ mảnh đất phương
Nam là nơi “an cư lạc nghiệp” cuối cùng. Sau khi về hưu, thuận theo mong
muốn của cô, và có lẽ cũng là mong muốn của thầy, thầy lại chuyển ra
Bắc cho gần gũi con gái, bà con họ hàng, quê hương Hải Phòng của cô.
Ngôi nhà đơn sơ ở Gia Lâm, Hà Nội là nơi thầy sống những năm tháng cuối
đời. Năm 2011, thầy viết cuốn Quê hương là trái bần chua ngọt, chan chứa
kỷ niệm, yêu thương trìu mến với quê nhà Lệ Sơn, Quảng Bình. Đường Thục
khó, khó như lên trời xanh…, như con đường đời của thầy vậy, nhiều gian
nan, chua ngọt. Hạnh phúc của thầy, cũng như của những người làm nghề
giáo là sống trong kí ức trái tim bao thế hệ học trò, bằng hào quang và
cả những vất vả, bình dị đời thường. Mong thầy an nghỉ bình yên nơi cõi
phúc. Những trang giáo án viết tay của thầy với nét chữ cứng cáp mà
phóng khoáng bay bổng, thỉnh thoảng tôi vẫn mở ra, như được tiếp thêm
nghị lực, niềm tin.
(Tp Hồ Chí Minh tháng 7/2021 - Đinh Phan Cẩm Vân)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét