Chùm thơ Raxun Gamzatov trong bản dịch Việt, Tày của Triệu Lam Châu
106. Перед войной мой старший брат женился,
На свадьбе сапогами он гордился.
Все гости тоже ими восхищались…
Лишь сапоги от тех времен остались.
На свадьбе сапогами он гордился.
Все гости тоже ими восхищались…
Лишь сапоги от тех времен остались.
106. Anh tôi cưới vợ trước chiến tranh
Trong ngày cưới anh tự hào về đôi giầy ủng
Khách khứa cũng tỏ lòng ngưỡng vọng
Chỉ đôi ủng kia còn lại đến nay thôi…
106. Cón p’ửa tức, p’ỉ dài khỏi au mjề
Wằn kin lẩu chài mẩng pỏn tôi hái ủng
Tản hâư củng khay slăm mẩng chjêm
Thâng cứ này tán nhằng tôi hái mỉn…
107. Роятся роем мысли в голове,
А мне необходимы только две.
Двух мыслей мне достаточно, поверьте,
Одной — о жизни и одной — о смерти.
А мне необходимы только две.
Двух мыслей мне достаточно, поверьте,
Одной — о жизни и одной — о смерти.
107. Ý nghĩ trong đầu đua nhau nảy nở
Nhưng tôi chỉ cần hai ý nghĩ thôi
Bạn hãy tin đi, chỉ hai là đủ
Một về cái chết, hai về đời.
107. Ăn nẳm chang thua sli căn ngảt
T’ọ hây chjêm sloong theo ngậy thôi
Pằng d’ạu slứn nơ, tán sloong lẻ đo
T’ải ất mừa ăn thai, sloong mừa t’ởi.
108. Поглядим мы на небо
— пойдет ли дождь?
Поглядим мы на поле
— растет ли рожь?
Поглядим друг на друга мы вновь и вновь
Жива ли еще меж нами любовь?
— пойдет ли дождь?
Поглядим мы на поле
— растет ли рожь?
Поглядим друг на друга мы вновь и вновь
Жива ли еще меж нами любовь?
108. Chúng ta nhìn lên trời
- Liệu mưa có rơi?
Chúng ta nhìn cánh đồng
- Lúa còn mọc không?
Chúng ta lại nhìn nhau lần nữa
Tình đôi ta còn chăng?
108. Boong hây mủng khửn vạ
- Mì phân tốc bấu nò?
Boong hây mủng t’ổng nà
- Khẩu nhằng tứn rụ bấu?
Boong rà t’jẻo mủng căn p’ày mấư
Mằn ki hây nhằng bâu?
109. Дождик бы нужен, его не видать,
Солнце бы нужно, но мне поливать,
Сколько болтал я, когда бы молчать,
Сколько молчал я, когда бы сказать.
Солнце бы нужно, но мне поливать,
Сколько болтал я, когда бы молчать,
Сколько молчал я, когда бы сказать.
109. Cần mưa thì lại nắng ngời
Khi cần nắng, lại đầy trời mưa rơi
Cần im, thì lại nhiều lời
Đến khi cần nói, ngây người ngậm tăm.
109. Ngoòng phân, vạ t’jẻo đét rèng
P’ửa hâư ngoòng đét, vạ ghèng đíng phân
Slì ngoòng wặm, t’jẻo lai gằm
Thâng slì phuối, t’jẻo bấu d’ăng slắc gằm.
110. Давно я песен больше не пою,
Давно стою у жизни на краю,
Живу я жизнью пресной, невеселой,
Она без песен, как еда без соли.
Давно стою у жизни на краю,
Живу я жизнью пресной, невеселой,
Она без песен, как еда без соли.
110. Đã lâu không hát nữa rồi
Vì tôi đã đến mép đời của tôi
Đời tôi sống nhạt, không vui
Thiếu bài ca, thiếu muối ngời trắng tinh.
110. Kỷ hâng bấu lượn d’á nò
Nhoòng hây thâng búng rìm pha t’ởi rà
T’ởi hây slổng mjạt lai a
Sljểu tèo sli, sljểu thuổn cưa muối ghềm.
109. Дождик бы нужен, его не видать,
Trả lờiXóaСолнце бы нужно, но мне поливать,
Сколько болтал я, когда бы молчать,
Сколько молчал я, когда бы сказать.
109. Cần mưa thì lại nắng ngời
Khi cần nắng, lại đầy trời mưa rơi
Cần im, thì lại nhiều lời
Đến khi cần nói, ngây người ngậm tăm.
Bài này Triệu Lam Châu dịch thoát mà lại hết sức phù hợp. Nghĩa đen của bài thơ như sau : Cần mưa thì chẳng thấy mưa. Cần mặt trời thì lại bị mưa dội. Cần im lặng thì lại huyên thiên. Cần nói lại lặng im. Thật thú vị khi dịch giả dịch "ngậm tăm"!