Thứ Năm, 24 tháng 3, 2016

MẮT RỪNG, TIỂU THUYẾT VÊ CUỘC CHIẾN CHỐNG LÂM TẶC




                                                                                Nhà văn Hồ Thủy Giang


MẮT RỪNG, TIỂU THUYẾT  VÊ CUỘC CHIẾN CHỐNG LÂM TẶC



Đọc “ Mắt rừng” của Hồ Thủy Giang, nhà xuất bản Công An Nhân Dân, 2015

                                   

                                           Vũ Nho

Hồ Thủy Giang là cây truyện ngắn, nhưng tiểu thuyết không phải là mảnh đất anh chưa từng thử sức. Đã có “Biệt li” ( 1994), thêm “ Những người mở đường”. Lần này với tiểu thuyết “ Mắt rừng” ( còn một tiểu thuyết đang in và một đang hoàn thiện), nhà văn chứng tỏ mình trường vốn và trường sức như thế nào.

          Là người từng sống trong  không gian và địa bàn rừng núi của Đại Từ, Thái Nguyên hầu như suốt cuộc đời, nên Hồ Thủy Giang gắn bó với rừng, hiểu rừng và những người sống ở bìa rừng, những người dân tộc ít người anh em  và người kinh  bản địa khá kĩ lưỡng.

Câu chuyện xảy ra ở tỉnh Bắc Nguyên. Vấn đề đặt ra là chống lâm tặc  ra sao để bảo vệ rừng hiệu quả. Nhưng muốn chống lâm tặc thì phải hình dung rõ kẻ thù lâm tặc là  thế nào. Lâm tặc có phải từ trên giời rơi xuống hay lâm tặc cũng từ dân mà ra? Những người liều lĩnh, hám lợi hoặc túng bấn quá thì hóa thành lâm tặc? Rồi lâm tặc có thể lại chính là những người được giao phó làm nhiệm vụ kiểm lâm, nhưng biến chất, sa ngã, tiếp tay cho lâm tặc, sau trở thành lâm tặc lúc nào không hay. Ấy là chưa kể còn có loại đối tượng “Bố lâm tặc” – Những cán bộ quan liêu, những người có lợi ích gắn liền với hoạt động buôn lậu gỗ, thậm chí có đến cả Chi cục phó chi cục kiểm lâm, từng khét tiếng chống lâm tặc, nay lại ngầm câu kết với chúng để  dẫn lối đưa đường cho chúng.


          Tác giả khắc họa  hai lực lượng đấu tranh sinh tử với nhau. Hai nhân vật tích cực là Trung, đội trưởng đội cơ động và Trần Hòa, Chi cục trưởng kiểm lâm, vốn là một giám đốc lâm trường.  Trần Hòa mới nhận chức. Nhưng anh là người quyết đoán. Theo cách đánh giá dựa vào nhân tướng học của Cựu, Phó chi cục kiểm lâm đợi nghỉ hưu : “ đôi mắt trông rất dịu dàng của Hòa luôn ánh lên những tia sáng quyết liệt. Người có đôi mắt như thế, theo nhân tướng học thì dù chết cũng không bao giờ chịu đầu hàng” ( tr. 39). Chính Đắc, trùm lâm tặc cũng phải ngán con người này vì “châm ngôn vĩ đại” cho rằng “ những gì không  mua được bằng tiền sẽ mua được bằng rất nhiều tiền” không  thể áp dụng với tay chi cục trưởng quèn. Đắc quyết định “không mua được thì phải diệt”.

Phía lâm tặc là Đắc, một tay trùm giang hồ nhiều mưu lắm mẹo, cùng với Khút, Lư những đồ đệ thân tín. Nhưng , đứng về phía lâm tặc còn có Hạp cán bộ kiểm lâm, từng tiếp tay cho chúng ;  còn có Bính, hạt trưởng vì túng quẫn, không có tiền chữa cho người nhà đã nhắm mắt làm liều rồi “ đâm lao phải theo lao”; còn có Sếnh, chi cục phó nhưng lại là “tay trong”…

Chính vì vậy mà cuộc chiến chống lâm tặc không hề dễ  dàng, nhiều cam go, thậm chí đổ máu và hi sinh khi  truy bắt, lâm tặc chống cự quyết liệt.

          Ngay buổi ra quân đầu tiên, Trung đã suýt chết vì bị lâm tặc cắt gỗ sau xe máy khi anh đang truy đuổi chúng. Hòa tích cực lập đề ánh giao rừng cho dân, nhưng bị bạn cũ là  Quân, Phó chủ tịch tỉnh gạt đi. Hòa đành phải thí điểm làm chui theo tinh thần của bí thư Kim Ngọc khoán chui trong nông nghiệp. Sở dĩ Hòa quyết liệt với việc giao rừng vì anh  và Trung và những người có tâm, có tầm hiểu rằng chống lâm tặc mà chỉ kể thành tích bằng bao nhiêu cuộc bắt  quả tang, bao nhiêu mét khối gỗ thu lại cho nhà nước… thì chỉ là chống phần ngọn. Chống tận gốc lâm tặc là không có sơ hở để cho lâm tặc lợi dụng. Mà muốn thế thì bài học xương máu không bao giờ cũ là phải dựa vào dân, phải giao rừng cho dân giữ. Đúng như lời ông già Triệu Lường nói với Hòa và Cựu khi hai người đi khảo sát Nà Nặm : “ Nhà nước hớ hênh mới chịu mất rừng, chứ chúng tao mà ra tay giữ  rừng thì bọn lâm tặc chỉ có ngồi mà khóc đấy vớ” ( trang 171).

          Cả hai phía kiểm lâm và lâm tặc đều hiểu rằng nếu dân ở ven rừng mà giữ rừng thì lâm tặc chỉ có con đường giải nghệ, như chính mồm Đắc, trùm lâm tặc thừa nhận. Đắc tự hào vì y đã biết “dựa vào dân”, “lấy dân làm gốc” để chống lại kiểm lâm : “ Vậy, anh là lâm tặc. Chú Lư chú Khút là lâm tặc, những thằng như Ma Văn Khì, Nông Văn Thử ở Khuôn Lình và và rất nhiều thằng khác  đã và đang trở thành lâm tặc…Cũng có nghĩa là lâm tặc được trưởng thành từ nhân dân, từ nhân dân mà ra! Như vậy hóa ra  là anh đây, chính anh đây đã biết lấy dân làm gốc chứ không phải thằng mả mẹ nào cả” ( tr.45).

Trong khi bọn lâm tặc tiền nhiều, của lắm, trăm mưu ngàn kế, nói làm là vung ngay tiền thuê trai tráng của bản chặt gỗ thì phía kiểm lâm muốn làm gì cũng phải xin chủ trương. Mà bộ máy công quyền   do phó chủ tịch Quân đại diện thì lại quan liêu, tự mãn. “ Chi cục kiểm lâm khi muốn thực hiện một điều gì đó hệ trọng đều phải chờ những thông tư, chỉ thị, nghị quyết gì đó của biết bao nhiêu ban ngành, vụ này, cục nọ” ( tr. 52). Gay go hơn cả là có những cán bộ đội cơ động, hạt trưởng, thậm chí cả chi cục phó cũng lại bị lâm tặc thao túng bằng tiền và gái. Có ai ngờ Sếnh, đường đường một Chi cục phó, từng khét tiếng chống lâm tặc, luôn miệng hô hào rất máu lửa : “ Đất nước này dù xuất hiện hàng ngàn, thậm chí hàng triệu tên lâm tặc thì chúng ta vẫn phải bắt hết, nhốt tù hết, xử lí hết! Thậm chí, nếu là tôi, tôi cho bắn hết!” (tr. 31), nhưng lại là người làm tay trong cho trùm lâm tặc. Tất cả các cuộc thanh tra, truy bắt của chi cục do Sếnh điều hành chỉ là trận giả, một sự phối hợp ăn ý với trùm lâm tặc.

Cuộc chiến thật gay go, quyết liệt. Cao trào của chiến dịch là khi Trần Hòa bị đình chỉ công tác. Quân đi thị sát và cho rằng cách làm của Hòa là sai lầm. Thậm chí thanh tra nghi rằng “ liệu chuyện giao rừng tự nhiên cho dân cai quản này có lợi ích cá nhân của các quan chức không”? Còn Đắc, trùm lâm tặc đã triển khai thành công việc lập một đội trai bản chặt thuê gỗ ở chính khu rừng bảo tồn Sơn Thượng.

Mười bảy chương sách  trong đó những con người của cả hai phía hiện lên khá sinh động với những toan tính, hành động quyết liệt. Để giải quyết dứt điểm cuộc chiến, tác giả đã cho nhà báo Huy Thọ, phóng viên báo Nông dân xuất hiện. Hóa ra Thọ là  sĩ quan cao cấp của Bộ công an điều về phá án. Nhờ sự khôn khéo của Thọ mà Đắc bị sập bẫy, bị bắt cùng với đầy đủ vật chứng.

Cùng với việc phản ánh cuộc chiến, nhà văn cũng cho thấy cuộc sống vất vả của đồng bào các dân tộc  vốn là căn cứ địa cách mạng.  Bên cạnh đó là sự quan liêu, khệnh khạng của loại quan chức, như Quân với  suy nghĩ thật xa lạ với tinh thần “công bộc” của dân : “ Làm quan mà không biết đem tới cho chúng dân nỗi sợ  cùng niềm hi vọng mỏi mòn thì chỉ là một ông quan hạng bét” ( tr. 143). Nhà văn cũng không ngần ngại nói về một số chính sách sai lầm từ trên trời rơi xuống. Cái chính sách sai lầm  đó như lời chủ tịch xã Ma Đình Huyên : “ chỉ trong vòng một tháng đã làm cho mấy nghìn héc-ta đất rừng xã tôi thành một bãi hoang, đồi trọc” ( tr. 229).

Tác giả không miêu tả  chi tiết vụ việc của Trần Hòa. Chỉ  lược thuật cuộc điện thoại khẩn của Chủ tịch huyện Sơn Đông cho chủ tịch tỉnh Hoàng Tâm. Và trước đó nói sơ việc  Trần Hòa  làm việc với Công, Giám đốc công anh tỉnh.

Phần vĩ thanh thay cho cái kết thúc “có hậu” như là trong truyện cổ tích. Trần Hòa được đề bạt chức Phó chủ tịch tỉnh. Đắc, trùm lâm tặc sau khi chịu án tù ra, mở công ti trách nhiệm hữu hạn sản xuất vật dụng từ rừng. Hạp, người từng bị kỉ luật sa thải khỏi ngành kiểm lâm, giờ làm chủ rừng. Hạp tặng Đắc con dao mà anh đã từng có ý định dùng giết chết Đắc và Suối để trả thù. Một kết thúc khá bất ngờ. Dù sao thì đó cũng là một cách kết thúc.

Việc tiểu thuyết lọt vào chung khảo và được giải khuyến khích “cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và kí về đề tài “Vì anh ninh tổ quốc và bình yên cuộc sống 2012-2015” của Bộ Công an là một minh chứng về thành công của cuốn sách. Cũng nhân tiện nói thêm, Hồ Thủy Giang là người có duyên với giải thưởng. Trước đó anh đã đoạt hàng chục giải thưởng, toàn giải cao của các tổ chức văn chương và báo chí.  Năm 2015, cùng với giải thưởng này, Hồ Thủy Giang còn được giải cao về thiểu thuyết đề tài Giao thông vận tải, giải thưởng phim truyện điện ảnh của Hội điện ảnh Việt Nam.

                                                 Bangkok 18 tháng 9 năm 2015

In trên  tạp chí Văn hóa các dân tộc, số 2 tháng 2/2016






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét