NGHĨ GÌ KHI ĐỌC "NGHĨ GÌ KHI ĐỌC THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU”
(Nhà đang bao việc, bận bù đầu với bài vở Tết Bính Ngọ, nhưng cũng phải dứt ra gõ lại bài này. Bài viết năm 1991 tranh luận lại bài “Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu” của ông Đỗ Văn Khang, Tiến sĩ Mỹ học, Phó tiến sĩ văn học, đăng báo “Văn Nghệ” số 43 (26/10/1991). Tạp chí “Cửa Việt” của Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị hồi mới tách ra từ tỉnh Bình Trị Thiên do nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường làm TBT và nhà văn Nguyễn Quang Lập PTBT đã cho đăng bài này vào số 13 năm 1992.)
*
Ý nghĩ 1. Trong văn học nghệ thuật lắm khi cái nói ra là gì chưa quan trọng bằng cách nói ra như thế nào. Điều này tưởng như ai cũng biết. Razun Gamzatov nhắc lại lời ông bố dạy: “Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình và thấy được mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” Bảo Ninh với cuốn tiểu thuyết “Thân phận của tình yêu” đã đạt được điều đó. Anh khai thác chiến tranh ở vỉa tầng khác đã đành. Anh còn biết cách khai thác để cho người ngoài nhìn thấy rõ vỉa tầng đó qua từng nhát đào của mình. Cuốn tiểu thuyết này là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”. Nội dung tác phẩm là cuộc đời của Kiên-người lính do Kiên-nhà văn viết lại. Tác giả quan sát, theo dõi Kiên trong cuộc vật lộn để sống lại quá khứ của mình trên trang viết. Tạo được một cấu trúc tự sự như vậy, chọn được một hình thức thể hiện như vậy là thành công nổi bật của Bảo Ninh. Khác đi thì những điều anh nói dù có thật có đúng cũng có nguy cơ không chân thực và không có sức thuyết phục. Với Bảo Ninh hình thức ở đây cũng đã trở thành nội dung. Hegel nói gì nhỉ? “Nội dung không phải cái gì khác là sự chuyển hoá của hình thức thành nội dung”. Nếu bỏ Kiên đi, hay vẫn có Kiên nhưng bỏ vai trò nhà văn của nhân vật đi và tác giả Bảo Ninh trực tiếp kể về những biến cố trong đời Kiên ở ngôi thứ ba, như vậy cuốn tiểu thuyết được giải thưởng Hội Nhà Văn năm 1991 này còn lại gì? Chỉ còn là một cuốn sách như bao cuốn sách nhan nhản hiện nay có mặt có tên mà không có người.
Ấy vậy, công phu nghệ thuật của nhà văn đáng được trân trọng tìm hiểu và khảo sát kỹ càng, thấu đáo để ghi nhận một dấu hiệu mới của tư duy văn học hiện đại Việt Nam, thế mà ông Đỗ Văn Khang đã xổ toẹt một cách dễ dàng không chút hồn nhiên. Theo ông, viết như thế “tác giả được lẩn đi tới hai lần” và do khéo viết nên “đã làm đôi bạn đọc dễ hiểu lầm về ý đồ tiểu thuyết của anh”. Ô hay, khéo viết là đáng khen chứ! Đó chẳng phải là một dấu hiệu cơ bản phân biệt người biết viết văn và kẻ không biết viết văn là gì? Còn như “đôi bạn đọc dễ bị lầm” đây chắc có ông Khang ở trong cùng một vài người nữa thôi. Tuyệt đại đa số bạn đọc khác đều biết ơn tài năng viết khéo của Bảo Ninh đã giúp họ nhận chân ra một miền sự thật, miền tình cảm lâu nay còn khép kín, phong bế. Mà này, giáo sư văn học phương Tây Phùng Văn Tửu vừa có cuốn chuyên luận rất hay là “Tiểu thuyết Pháp hiện đại. Những tìm tòi đổi mới”, trong đó có chương ba bắt đầu từ trang 114 nhan đề “Tiểu thuyết là đề tài của tiểu thuyết”. Ông Khang có thể tham khảo sách đó chương đó để thấy Bảo Ninh cùng văn học ta đang cố hoà nhập vào văn học thế giới như thế nào, mặc dù là đến sau đi chậm.
Ý nghĩ 2. Học sinh phổ thông trước đây học văn là phải tóm tắt nội dung và nêu đại ý tác phẩm được đem ra phân tích. Chẳng hạn tóm tắt truyện “Chí Phèo”: thằng Chí con hoang bỏ rơi, thắng Chí lưu manh say rượu, thằng Chí rạch mặt ăn vạ, thằng Chí cưỡng bức Thị Nở, thằng Chí đâm chết Bá Kiến đòi lương thiện. Học trò chưa biết gì trình độ còn thấp thì thầy cô phải bắt làm thế để hiểu dần lên, tuy cách làm đó là thô bạo với văn chương. Ngờ đâu ông Đỗ Văn Khang, người có hai bằng ông nghè mỹ học và văn học, để đọc được cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng lại vỡ lòng từ đại ý trở đi. Xin mách cho các giáo viên nên lấy đoạn từ “Nói rõ hơn…” đến “…đứt gẫy ấy” của ông Khang làm mẫu hình minh hoạ cho sự thô thiển, sự giản lược, sự xuyên tạc nội dung tác phẩm mà phương pháp tóm tắt, đại ý gây nên. Ở đây có hai khả năng: - Một là ông Khang không có cách đọc nào khác đối với tác phẩm văn học ngoài cách đọc đại ý, tóm tắt (mà thường là sai lệch); - Hai là ông Khang chê độc giả kém không biết đọc, tự cho mình cái quyền làm thầy độc giả đi từ ABC. Cả hai khả năng này đều có ở ông Khang. Do đó có những điều sơ đẳng ông đã nhầm nghiêm trọng.
Học truyện “Chí Phèo” học sinh có thể hỏi: thưa thầy Nam Cao là Chí Phèo ạ? Ông thầy phải nói ngay: không, đừng nhầm thế. Chí Phèo là nhân vật. Nam Cao là nhà văn. Chí Phèo là Chí Phèo, Nam Cao là Nam Cao. Chí Phèo không phải là Nam Cao, Nam Cao không phải là Chí Phèo. Điều sơ đẳng ấy học trò biết một lần rồi thì nhớ, nhớ rồi thì hiểu, hiểu rồi thì đọc văn thích thú mà không bị luẩn quẩn, loanh quanh với cái sự Trang Chu hay Hồ Điệp, Hồ Điệp hay là Trang Chu (xin nói ngay đây là mượn hình thức của điển này chứ không phải bàn đến nội dung triết học của nó). Ông Khang thì chắc đã lâu quá nên cái nhớ cái quên. Tóm tắt đại ý thì ông nhớ. Tác giả và nhân vật là khác nhau thì ông quên. Thế là toàn bộ cảm xúc, suy nghĩ của Kiên ông gán hết cho Bảo Ninh. Trong nghiên cứu văn học, đồng nhất nguyên mẫu với nhân vật đã là một điều kị. Đồng nhất tác giả với nhân vật lại càng kị hơn. Lý luận văn học nói: Nhà văn tạo ra nhân vật nhưng nhân vật có logic nội tại riêng của nó, lắm khi nó phát triển cưỡng lại ý đồ của nhà văn. Ông Khang chắc nhớ thí dụ kinh điển về trường hợp nhân vật Tachiana của Puskin. Nếu cứ thực hiện ánh xạ một đối một từ hành vi, cử chỉ, nói năng, suy nghĩ của nhân vật sang cho tác giả thì còn ai dám viết văn và ai cần đọc văn. Thời Nam Cao chỉ vì có những kẻ tự nhận mình là con chó, thằng say trong truyện của ông mà ông đã quá khổ rồi. Nam Cao mà sống lại thời nay thì không biết ông còn khổ đến mức nào khi ông buộc phải nhận lấy những hành vi của Chí Phèo, Trương Rự… là của mình chiểu theo kết quả nghiên cứu của Đỗ Văn Khang.
Mà lạ, sao ông Khang không thấy những câu ông trích của Kiên để gán tội cho Bảo Ninh – đó là lời nhận xét, phân tích, đánh giá của nhà văn đối với nhân vật. Ở đây có vấn đề lý luận: vị trí và giọng điệu của nhà văn trong hệ thống, vị trí và giọng điệu của nhân vật ở trong tác phẩm. Giọng điệu của Nam Cao khi ẩn đi cho giọng điệu của Chí Phèo trội lên, khi tách ra thành giọng điệu tác giả, khi sóng đôi cùng giọng điệu nhân vật. Bảo Ninh trong tác phẩm của mình, như đã nói trên, chọn vị trí người quan sát, theo dõi nhân vật và anh chọn giọng điệu luận giải về Kiên và những điều Kiên viết ra. Cái câu ở trang 279: “Đây vẫn là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời. Tôi không muốn nói là điên rồ.” – câu này là Bảo Ninh nói về cuốn tiểu thuyết Kiên đang viết. Ông Khang muốn lấy câu đó để nói về cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chưa có tên gọi của Kiên thì tuỳ, nhưng hoàn toàn không thể dựa vào đó mà nói về cảm hứng chủ đạo của cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh. Trong cuốn sách này có sự xê dịch điểm nhìn giữa tác giả và nhân vật, các góc nhìn của họ không phải lúc nào cũng trùng nhau. Toàn bộ đoạn mở đầu kể lại cảnh đi quy tập xác đồng đội ở truông Gọi Hồn cùng những hồi ức về những cuộc chiến đấu ở đây, thoạt mới đọc thấy là kể ở ngôi thứ ba, nhưng đọc đến mấy chục trang sau thì mới hay đó là những trang Kiên viết về mình ở ngôi thứ nhất. Và khi đó tác giả mới luận giải cho người đọc biết vì sao Kiên lại mở đầu cuốn tiểu thuyết của mình bằng những cảnh tượng chết chóc đẫm máu như thế. Viết như vậy là khéo viết khiến ông lúng túng, lầm lẫn không dò ra được các mạch nối cấu trúc của tác phẩm nên ông hiểu sai ý đồ của nó, phải không, thưa ông Khang?
Cũng dễ hiểu vì sao ông Khang lại lâm vào tình thế khó xử này. Ngay từ đầu ông đã vứt bỏ cái kiến trúc “tiểu thuyết của tiểu thuyết’dù là còn chưa hoàn chỉnh mà Bảo Ninh phải tốn bao công sức mới dựng nên được. Ông muốn đi vào một mê cung nhưng lại khinh suất quẳng mất sợi chỉ Adrian, đã thế lại còn đòi mê cung phải phẳng như đại lộ một chiều và thẳng một hướng. Cho nên ông lạc đường và quẩn quanh là đúng, và đối với ông cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh vẫn là một mê cung bí ẩn.
Ý nghĩ 3. Trong phê bình văn học Ông Khang có hệ đo riêng của mình, - hệ K. Cái hệ này chỉ riêng ông có và chỉ mình ông đo. Tuỳ từng trường hợp cụ thể hệ K. sẽ được phân ra các cấp độ khác nhau nhưng có một điểm chung không thay đổi là: hệ K. là xấu. Cái gì mà bị dính vào hệ K. là bị phê phán, lên án. Nhưng cái nào phải đo bằng hệ K. thì chỉ ông đốc Khang mới biết. Nguyễn Huy Thiệp “nhờ ông” mà có ba độ K. (xem báo “Văn hoá nghệ thuật” số 15/1990), chuyện đó thôi không nói nữa. Bây giờ Bảo Ninh cũng bị ba K. Không những thế ông Khang còn cho biết là tác giả này bị K. nặng. Phép đo của ông như sau:
K1: Cảm hứng chủ đạo là rối bời (dẫn tới)
Cách viết “mượn chén”: -thật và giả lẫn lộn
-đen và sáng nhập nhoà
-chính và tà chẳng ra sao.
K2. Tư tưởng cơ bản là hoang mang (dẫn tới): không tin vào chính mình,
rơi vào sự phủ định.
K3. Lực lượng tác động là do nhân vật = (tác giả): -tâm hồn đen tối
-tinh thần bạc nhược
-tâm lý chiến bại
Cái hệ K. là vậy đấy! Xin nhớ: đây không phải là hệ thống (có hệ thống nào ở đây?), mà là “hệ quy chiếu”, tức là một hệ đo. Theo khoa học hiện đại: người đo là một thành phần của hệ đo. Phải nói thẳng ra rằng cái hệ gọi tên trong nháy nháy của ông Khang này chỉ vừa kích tấc của ông và chỉ dùng để đo riêng ông thôi. Tham vọng dùng nó “để đánh giá đúng tiểu thuyết hiện đại” là một sự tự phụ quá mức thành ra lố bịch.
Bảo Ninh nói: Tôi thấy có cái truyện như vậy cần viết ra thế là tôi viết ra cái truyện ấy, vậy thôi. Không luận đề, không tư tưởng đặt trước nào cả. Ông Khang muốn tìm cảm hứng chủ đạo, thì đây: Nỗi Buồn (tác giả thành thật bộc lộ ra qua cái tên quai nôi của tác phẩm). Tư tưởng cơ bản: con người phải biết buồn cho mình để sống cho ra người. Lực lượng tác động ở đây là chiến tranh – nó vừa đè bẹp con người vừa thử thách con người, làm cho ai sống qua nó đều phải đập vỡ mình ra mà làm lại. Như vậy tác phẩm “có chân thật hay không chân thật”, “có nhân văn hay không nhân văn”? Ông Khang cho rằng Bảo Ninh đã “chuếnh choáng”, “sa đà”, nên phản ánh sai lệch cuộc chiến tranh của dân tộc. Hệ K. phát tín hiệu phản ứng: Sao lại nói cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc thành “cuộc chiến tranh Việt – Mỹ”? Sao lại khắc hoạ bộ đội ta như lũ thất trận chứ không phải những người “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”? Sự thật, thưa ông. Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh góp thêm một mảng sự thật của người lính, bên cạnh những mảng sự thật khác của những người lính khác, đắp vào khối tượng đài hoành tráng bi thảm của dân tộc một thời trận mạc. Chiến tranh có những sự thật và quy luật nghiệt ngã của nó cần phải được gọi ra đúng tên. Văn học viết về chiến tranh, về con người đi qua chiến tranh không thể lảng tránh điều đó.
Xin chép tặng ông Khang hai câu danh ngôn về sự thật.
Béctôn Brếch (Đức) nói: “kẻ nào không biết sự thật, kẻ đó là một thằng ngốc. Nhưng kẻ nào biết sự thật mà lại gọi nó là giả dối, kẻ đó là một tên tội phạm.”
Giêm Lauen (Mỹ) nói: “Người nghiêm túc không bao giờ lấy chiếc lá nho để che đậy sự thật trần trụi.”
Ý nghĩ 4. Mấy điểm đính chính cần thiết.
-Ông Khang đã không có một cái nhìn toàn cảnh trong một toàn cảnh do nhà văn tạo ra. Cảnh ở sân bay Tây Sơn Nhất thuộc vào số những trang viết thấm đậm nhất trong cuốn sách của Bảo Ninh. Dựng cảnh sống động, thể hiện tâm lý sâu, từ đó toát lên gay gắt vấn đề nhân tính hay không nhân tính trong con người từ cuộc chiến bước ra. Xin ông Khang hãy đọc lại đi. Kiên đã phản ứng ra sao trước hành động dã man của một đồng đội mình đối với cái xác của cô gái. Anh không thể chịu đựng được sự nhẫn tâm, tàn bạo phi nhân ấy, dù là nhân danh người chiến thắng. Suýt nữa thì vì một cái xác chết anh dám bắn chết một người của mình để giữ cho tính người được sống.. Và ông Khang có thấy cuối cùng những người lính của chúng ta đã nhận ra lỗi lầm của mình và lo khâm liệm cho cô gái xấu số ấy không?
-Thật đến là không hiểu nổi cái cách đọc truyện của ông Khang. Trong truyện của Bảo Ninh làm gì có chuyện cạo lông bụng béo xệ của người đàn bà sống trong rừng, mà đó là chuyện mấy người lính trinh sát bắt được con vượn định về cải thiện nhưng khi cạo lông thì thấy hiện nguyên một người đàn bà liền hoảng quá bỏ luôn. Chi tiết có thể không thực, tác giả nói là nghe đâu kia mà, cũng như chi tiết về loại hoa hồng ma, nhưng nó giúp thể hiện sự khốc liệt đẫm máu của một góc chiến trường. Tác giả đã không ngại ngần mô tả một bãi chiến trường đẫm máu thì một chi tiết như thế là không đặt nhầm, không lạc điệu. Còn bảo đó là chủ nghĩa tự nhiên trong văn học thì oan quá cho E. Zola.
Kiên vinh dự được Dr. Khang đặt ngang hàng với “L’Étranger” trên ghế bị cáo để nghe lời kết tội sau: “Đó là một kẻ chiến bại, tìm cach chạy trốn vào quá khứ để khư khư ôm lấy tâm trạng đổ vỡ mà không dám nhìn thẳng vào những khó khăn để dồn sức làm được một cái gì đó cho ngày mai.” Xin thưa cùng ông Khang cái mối dây bất tương giao mà ông đem dùng để cột hai nhân vật này với nhau kèm theo bản án ghê rợn kia lại tỏ ra đúng ở một hướng ông không thể ngờ. Đấy là sự tương hợp giữa Albert Camus và Bảo Ninh trong việc nắm bắt và diễn tả tâm trạng con người thời gian sau chiến tranh.
L’Étranger là ai? Đó là con người ở trong thế giới của “huyền thoại Sisyphus”. Đó là con người biết số phận mình để làm chủ số phận. Ông ngạc nhiên lắm phải không? Thì đây, lời của André Maurois: “Camus đề nghị gì với chúng ta? Là đứa con của mặt trời, ông không chấp nhận sự tuyệt vọng. Tương lai không tồn tại ư? Hẵng cứ cho là như vậy, chúng ta hãy tận hưởng hiện tại. Sisyphus ý thức được số phận nặng nề của mình và đó là sự giáo đầu cho thắng lợi của chàng. Ở đây Camus tương đồng với Pascan. Sự vĩ đại của con người là ở chỗ biết rằng nó hữu hạn sống. Sự vĩ đại của Sisyphus là ở chỗ biết hòn đá tất yếu sẽ lại lăn xuống dưới. Và sự hiểu biết đó biến số phận thành công việc của bàn tay con người mà mọi người phải cùng nhau thu xếp lấy.” Nhân vật của Bảo Ninh cũng cần được hiểu theo nghĩa này. Tác giả viết: “Và có lẽ để nhận lấy đau khổ mà người ta được sinh ra trên đời này, cũng vì đau khổ mà mà người ta phải sống, phải mưu cầu hạnh phúc, phải đến với tình yêu, với nghệ thuật, phải tận hưởng, phải chịu đựng đến cùng cuộc sống.” (tr. 181)
(Xích ma) các ý nghĩ 1,2, 3 và 4. Kể ra còn có thể nghĩ nhiều nữa về “nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu”. Nhưng mà thôi, nghĩ thế cũng đã là nhiều, vì lẽ ra không cần phải nghĩ nhiều thế. Cái giỏi của ông Khang là ở như cái hệ K. ấy. Mỗi lần ông tung cái hệ ấy ra thì không ai ngồi yên được, ai cũng thấy mình bị dính độ K. Và dù có nói bao nhiêu thì hệ K. vẫn chỉ có một chiều đo là đo theo chiều xấu. Đành vậy, không nghĩ nữa.
Nhưng phải có kết luận các ý nghĩ chứ? May sao ông Khang đã cho sẵn rồi, đỡ phải tìm kiếm. Cái câu “Giá mà…” cuối bài của ông xin lấy nửa sau: “Bảo Ninh cắm ngay được cái mốc văn học bằng tiểu thuyết này.” Và cái câu ông kết bài ông xin sửa hai chữ thành câu kết bài này: “Thật đáng tiếc, lẽ ra không nên bôi vôi “Thân phận của tình yêu”.
Hà Nội vào đông 1991.
pxn

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét