TÍNH NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM CỦA TARAS SHEVCHENKO
VÀ NGUYỄN DU
Nguyễn Xuân Hòa
Taras Shevchenko và Nguyễn Du - hai nhà thơ lớn ở hai đất nước xa nhau về địa
lý, nhưng hai trái tim lớn của họ đều đập cùng nhịp với muôn triệu trái tim của
nhân dân cần lao với hướng đi: đến với dân, sống vì dân và làm thơ vì hạnh phúc
của nhân dân.
Thời đại Shevchenko (1814 – 1861) là thời đại của chế độ quân chủ chuyên chế
Nga hoàng nửa đầu thế kỷ 19 với chế độ nông nô hà khắc mà chính nhà thơ cũng là
một nạn nhân. Nhà thơ đã chứng kiến những cảnh đời bất công đầy rẫy trong xã
hội của đế chế Nga nên từ trong dòng sữa của người mẹ nông nô nhà thơ đã lớn lên
trong không khí phản kháng chế độ chuyên chế, đòi xóa bỏ chế độ nông nô.
Thời đại Nguyễn Du (1765 -1820) là thời đại mục nát của chế độ phong kiến cuối
thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, một thời đại đau khổ nhưng vô cùng oanh liệt bởi nhiều
cuộc khởi nghĩa nông dân nối tiếp nhau, điển hình là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã
lật đổ chế độ vua quan, đánh bại hơn 20 vạn quân nhà Thanh xâm lược, nhưng xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không thoát khỏi chế độ phong kiến mà người dân
vẫn là tầng lớp chịu nhiều đau khổ nhất.
Hai cảnh đời, một nỗi đau nhân tình
Taras Shevchenko xuất thân là nông nô. Thuở nhỏ Taras đã từng là “gia nô hầu
phòng” ở nhà chúa đất, đã nếm trải thân phận của những kẻ chịu lặng câm muôn
thưở sống cảnh nô lệ tôi đòi. Trong suốt 47 năm sống dưới chế độ hà khắc của
nước Nga chuyên chế thì 24 năm đầu của cuộc đời Taras đã phải cam chịu thân
phận nô lệ bị ràng buộc trong tay tên chúa đất Pavel Enghengardt. Nhiều năm sống
cảnh tôi đòi bị đọa đày, nhân phẩm bị xúc phạm Shevchenko ý thức rất rõ về giá
trị con người, điều quý giá đầu tiên của loài người khi sinh ra trên thế gian này.
Hơn ai hết, Taras Shevchenko đã đề cao giá trị con người đang bị đọa đày trong xã
hội của Đế chế Nga nửa đầu thế kỷ 19 trong nhiều thi phẩm của mình. Trong bài
thơ Giấc mơ (1858) với niềm cảm thông vô bờ với cuộc đời của những con người
cùng cảnh ngộ, Shevchenko đã thay mặt họ mơ về một giấc mơ đẹp khi giá trị con
người được tôn trọng, cảnh nô lệ được giải thoát khi trở lại làm người tự do:
2
Làm lao dịch, gặt lúa mì cho chủ
Mệt rã rời chị đâu dám ngơi tay
Thất thểu bước chị gom từng lượm lúa
Thở đứt hơi…con khát sữa, khóc hoài...
Chị mơ thấy thằng Ivan của chị
Thoát kiếp tôi đòi, giàu có đẹp trai
Cưới cô gái tự do thôi kiếp đời nô lệ
Gặt lúa ruộng mình, cùng ghé sức chung vai.
Thời thơ ấu gia đình Shevchenko là “sở hữu” của tên chúa đất Enghengardt,
nguyên là thống đốc Smolensk. Cuộc sống của người nông dân nông nô trăm bề cơ
cực, nhục nhã, điều mà Shevchenko luôn cảm thấy thân phận mình chỉ là những
thân phận bé nhỏ bị trói buộc trong bàn tay sắt nghiệt ngã của bọn chúa đất. Chính
vì vậy không ai có thể miêu tả cuộc đời bị đè nén ấy với sức mạnh và chiều sâu
như chính bản thân Shevchenko miêu tả. Nhà thơ xuất thân từ nông nô thực sự
“đau lòng” khi chứng kiến cảnh đời bất công của đồng loại, trong đó có cả chính
mình. Chính vì vậy để bảo vệ giá trị con người đúng với nghĩa của nó, Taras
Shevchenko không nguôi nghĩ tới một giấc mơ đòi giải phóng thoát kiếp đời nô lệ.
Tôi sống lại hôm nay vì họ
Vì những người bị xiềng xích của tôi
Những kiếp người bất hạnh tôi đòi
Tôi ngợi ca những con người bé nhỏ
Những nô lệ chịu lặng câm muôn thuở
Nguyện một lòng vì họ có tôi
Đứng canh cho quyền được sống làm người.
Khác với Shevchenko, Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình một vị tể tướng có
nhiều người giữ chức trọng quyền cao dưới triều Lê. Cuối thế kỷ 18 Nguyễn Du ra
3
làm quan khi vua Lê chỉ là một cái bóng mờ nhạt trong bộ máy cai trị phong kiến
thời Lê mạt. Nguyễn Du đã tận mắt chứng kiến đời sống xa hoa trụy lạc của giai
cấp thống trị, điển hình là chúa Trịnh thâu tóm mọi quyền bính trong tay. Trong xã
hội người dân phải sống cảnh điêu linh, loạn lạc. Thảm họa Trịnh - Nguyễn phân
tranh ở hai miền đã đẩy đất nước vào cảnh chiến tranh liên miên, người dân vẫn là
người chịu nhiều đau khổ nhất. Tất cả những cảnh đời sang hèn trái ngược nhau
đập vào mắt nhà thơ, gây xúc động mạnh đến tâm hồn Nguyễn Du vốn nhạy cảm
và giàu lòng nhân ái. Nguyễn Du, khi sinh ra, vốn đã thiện tâm như tất cả mọi
người, kể cả khi ông là một ông quan nhà Nguyễn cách biệt với quần chúng nhân
dân. Trái tim lớn của một nhà thơ và cũng là của một nghệ sĩ luôn luôn tiếp dòng
máu nóng cho những lời thơ xuất phát từ thiện tâm của một nhà thơ biết yêu, ghét
hợp lẽ đời. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một minh chứng sinh động cho tấm
lòng nhân ái của nhà thơ trước số phận đau khổ của bao kiếp người, điển hình là
nhân vật Thúy Kiều. Có thể nói, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du (trong đó nổi
bật là Truyện Kiều) bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm đã toát ra một tinh thần nhân
đạo sâu sắc. Con người với giá trị đích thực của nó được Nguyễn Du nói lên với sự
trân trọng và với tấm lòng nhân ái. Con người dưới con mắt Nguyễn Du là của báu
của cuộc đời, ông đau xé lòng khi phải chứng kiến cảnh ngộ thương tâm của con
người cùng khổ. Khi đi sứ Trung Quốc dù ở địa vị cách biệt với quần chúng lao
khổ, tấm lòng nhân ái ở Nguyễn Du đã khiến ngòi bút của ông không thể kìm giữ
những câu chữ xuất phát từ con tim nhạy cảm trong bài thơ chữ Hán Thái bình mại
ca giả. Đó là cảnh bi ai, ảo não của một ông già mù đi hát rong ở châu Thái Bình,
Quảng Tây (Trung Quốc). Một hôm đi chơi thuyền Nguyễn Du chứng kiến thuyền
bên cạnh gọi một ông già mù xuống hát. Trên sông gió thổi vi vu, trăng soi vằng
vặc. Mọi người lắng nghe tiếng ông già vừa đàn vừa hát. Nguyễn Du không rời
mắt khỏi ông già mù:
Miệng xùi bọt mép, tay mỏi rã rời;
Ông già ngồi xuống, xếp đàn, ngỏ lời đàn hát đã xong
Đứa bé đã dẫn ông ra khỏi thuyền
Ông còn quay lại ngỏ lời chúc tụng.
Đàn hát mệt nhọc rã rời mà chỉ được năm sáu đồng tiền, nhưng ông già vẫn
không ngớt lời cảm tạ, âu đây cũng là thói quen cố hữu của những kẻ nghèo khó bé
nhỏ. Nguyễn Du đã ghi lại hình ảnh đáng thương này trong bài thơ chữ Hán Thái
bình mại ca giả với cảnh đời đối lập được miêu tả tiếp sau đó:
4
Kìa chẳng thấy lệ cung thuyền sứ
Thuyền đầy cơm thuyền ứ thịt nem
Người no no dạ, đã thèm
Cơm canh thừa mứa đổ chìm đáy sông.
Còn Truyện Kiều, tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du, lấy con người làm đề tài
trung tâm, nâng nó lên thành vấn đề xã hội. Đọc Truyện Kiều chúng ta càng hiểu
sâu sắc hơn giá trị của con người, càng hiểu rõ hơn con người là cái quý giá nhất
trên đời cần được trân trọng, bảo vệ. Có thể nói, qua Truyện Kiều Nguyễn Du đã
thay mặt tất cả chúng ta hôm nay nói lên giá trị con người ở thời đại ông sống đang
bị xúc phạm, và như thế Nguyễn Du đã gián tiếp nêu lên vấn đề cần phải bảo vệ
giá trị con người như nó vốn có. Chúng ta cảm thấy ở nhà thơ một tấm lòng nhân
ái cao cả, đau xót vì số phận bị đọa đày của bao kiếp người lầm than. Phải thông
cảm sâu sắc với số phận con người như thế nào thì Nguyễn Du mới đúc kết được
một triết lý “trong thế gian này xưa nay những người có tài thường hay bạc mệnh”
mà lẽ ra con người đó với tài năng của mình phải được sống sung sướng.
Càng yêu người càng chăm lo cho hạnh phúc con người
Con người tồn tại như một thực thể trên thế gian trong một xã hội nhất định. Nó
phải hoạt động, làm việc, chế ngự thiên nhiên, làm ra của cải vật chất để xây dựng
cuộc đời ấm no, hạnh phúc. Như vậy con người phải được phát triển toàn diện
trong môi trường tốt đẹp, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, người với người đều yêu
thương nhau, giúp đỡ cộng tác với nhau.
Taras Shevchenko là một nhà thơ xuất thân từ nông nô, nhưng từ thuở nhỏ tài
năng về hội họa của ông đã có nhiều hứa hẹn. Chính bản thân Shevchenko đã nhận
được sự ưu ái của đồng bào mình – những họa sĩ có tên tuổi thời đó đã đứng ra
giúp ông vào học ở Viện Hàn lâm Mỹ thuật Saint - Petersburg. Nhưng trước hết
phải giải thoát Shevchenko khỏi thân phận người nông nô thì tài năng đó mới được
phát triển. Họa sĩ danh tiếng Briullov giảng dạy ở Viện Hàn lâm Mỹ thuật và nhà
thơ Zhukovsky đã bàn cách kiếm đủ số tiền lớn quá sức tưởng tượng thời đó –
2500 rúp – để chuộc tự do cho Shevchenko. Họa sĩ đã vẽ chân dung nhà thơ
Zhukovsky để đem bán đấu giá. Nhờ sự giúp đỡ của chính nhà thơ Zhukovsky và
bá tước nhạc sĩ Viengorky bức chân dung đã được đem bán đấu giá trước bàn dân
thiên hạ sau buổi hòa nhạc tại nhà bá tước. Các họa sĩ đã thu đủ tiền để chuộc lại tự
5
do cho Shevchenko và thế là Shevchenko được nhận vào Viện Hàn lâm Mỹ thuật
Saint - Petersburg làm học trò giáo sư họa sĩ Briullov.
Như chim sổ lồng, Shevchenko say mê vẽ tranh, trau dồi cách bố cục tranh vẽ, và
đồng thời trong thời kỳ này tài năng thơ của ông như được chắp cánh khi tinh thần
đầu óc được giải tỏa. Đó là ngày 22 tháng 4 năm 1838 ngày Shevchenko được trở
lại làm người tự do. Nhớ ơn những người đã giúp mình thoát khỏi thân phận nông
nô, Shevchenko đã nhanh chóng hoàn thành trường ca Katerina (1838) để nhớ
ngày đổi đời. Với lời đề tặng nhà thơ Zhukovsky, Shevchenko đã ghi lại ấn tượng
mạnh mẽ của cuộc đổi đời, từ thân phận dê, chó, ngựa, trâu được trả lại tự do làm
người. Hạnh phúc đơn sơ khó thực hiện đối với người nông nô đối với Shevchenko
thật vô cùng quý giá. Nhà thơ đã dồn hết tim óc sáng tạo nên bản trường ca để trả
nợ cuộc đời, cũng là để nhớ ơn những con người thiện tâm đã vun đắp hạnh phúc
cho mình. Với 5 chương gồm 750 câu thơ trong trường ca Katerina Shevchenko đã
sáng tạo nên hình tượng nghệ thuật làm xúc động lòng người. Katerina là một cô
gái yếu đuối, cam chịu một cách thụ động số phận bạc bẽo. Dù bị chàng lính trẻ
đẹp trai qua làng là tên Sở khanh quyến rũ rồi ruồng bỏ, Katerina vẫn cứ tin rằng
số phận mình đã bị cột chặt không thể vùng vẫy được nữa nên nàng chỉ còn cách
hạ mình cầu xin một sự che chở mong manh của gã sĩ quan bạc tình. Thậm chí chỉ
vì hạnh phúc sau này của đứa con – hòn máu rơi của gã, nàng sẵn sàng cúi mình
xin làm gia nô hầu hạ gã, quên cả những đoạn đường dài nuốt nhục đi tìm gã trong
khi gã đã quên hẳn nàng là người tình xưa. Cảnh lưu lạc của nàng có cái gì đó
giống với số phận nàng Kiều của Nguyễn Du, chỉ có khác là Katerina không bị sa
chân vào chốn lầu xanh. Có thể ghi lại đây tóm tắt cốt truyện của trường
ca Katerina như sau:
Quá nhẹ dạ và quá yêu chàng lính trẻ qua làng, cô gái nông nô Katerina đã trao
thân cho chàng. Việc quân ngũ thôi thúc chàng lên đường. Chàng thề thốt sẽ trở về
và chung tình mãi mãi với nàng. Nàng chờ mong hạnh phúc sẽ đến với nàng,
nhưng gã lính trẻ phụ tình đã lặn tăm. Không chịu nổi miệng lưỡi thế gian đàm
tiếu, nàng nuốt nhục bồng con thơ lên đường, quyết tìm chàng. Thân gái dặm
trường, nàng và con đã đặt chân đến kinh thành Moskva. Một hôm hai mẹ con
nàng nghỉ chân ven đường ở nhà một người nông dân thì tình cờ có đoàn quân đi
qua. Nàng nhận ra người sĩ quan trẻ đi đầu cưỡi ngựa là chàng lính trẻ năm xưa.
Nàng lao ra nắm lấy giây cương nhưng gã Sở khanh đã quay đi. Nàng vội chạy như
bay về ngôi nhà ven đường bế con ra nhận bố. Nhưng gã sĩ quan đã thúc ngựa như
một kẻ chạy trốn. Phẫn chí, nàng nhè nhẹ đặt con bên đường và gieo mình xuống
6
đầm nước tự vẫn. May sao có người nhặt được đứa bé về cưu mang nuôi khôn lớn,
sau này theo người hát rong xiêu bạt đó đây. Một hôm có chiếc xe ngựa sang trọng
đi qua và dừng lại. Ông chủ ngồi trên xe cùng vợ con chính là gã sĩ quan bạc tình –
cha đẻ đứa con bị bỏ rơi. Gã chợt nhận ra diện mạo của chính mình qua thằng bé
có đôi lông mày đen – giọt máu rơi của gã. Nhưng cả lần này nữa, trái tim của
người cha nhẫn tâm thêm một lần nguội lạnh. Gã đã quay như một kẻ trốn chạy…
Qua cốt truyện trên đây Shevchenko đã gắn số phận và hạnh phúc mong manh của
cô gái nông nô với hoàn cảnh xã hội đầu thế kỷ 19 ở nước Nga và Ukraina, đưa
cuộc đời riêng của nhân vật trở thành điều trăn trở trước hạnh phúc của bao số
phận con người. Đây là một cách nhìn tiến bộ mang tính nhân văn sâu sắc, vì con
người và hạnh phúc con người. Trong truyện vừa Nàng Liza bạc phận của
Karamzin và trong trường ca Nàng Eđa của Batynsky những nhân vật nữ là những
con người bị chà đạp lên nhân phẩm, nhưng các tác giả chỉ dừng lại ở sự lên án
những hành vi vô đạo đức, bội bạc trong tình yêu. Khác với Nàng Liza bạc
phận và Nàng Eđa, trường ca Katerina của Shevchenko ngoài tính nhân văn của nó
còn mang tính xã hội đậm nét: thay vì cam chịu thụ động là thái độ lên án chế độ
nông nô hà khắc qua cái chết phẫn chí của cô gái Katerina, yếu tố quan trọng tạo
nên mối đồng cảm tự nhiên ở người đọc:
Ôi! Chàng đây rồi, ôi số phận
Nàng ngước nhìn rồi đưa tay dụi mắt:
Đúng rồi! Chính người đầu tiên cưỡi con tuấn mã
Ivan chàng ơi, người em vô vàn yêu quý
Trái tim em, hạnh phúc đời em
Sao bấy lâu chàng biền biệt bặt tin?
Và khi thoáng biết chàng lính trẻ năm xưa phản bội tình yêu, nàng không ngần
ngại hạ mình vì hạnh phúc của đứa con:
Xin chàng đừng hắt hủi bỏ rơi em
Xin chàng nhận em làm gia nô hầu hạ
Và chớ quay lưng chẳng ngó ngàng con
Chàng cứ yêu đi, một người con gái khác
Em sẽ quên rằng hai ta đã yêu nhau
Rằng con trai em có chàng là cha đẻ
Rằng vì chàng em chịu nhục đớn đau
Cả tuổi xuân em chịu điều tai tiếng
Chàng cứ quên em đi, vĩnh viễn
7
Nhưng đứa con trai, xin chàng chớ bỏ rơi!
Trường ca Katerina là sự khởi đầu cho nhiều thi phẩm sau này của Shevchenko
mang tính xã hội cao hơn, ở đó sự cam chịu với số phận mình và hạnh phúc của
mình đã được thay thế bằng thái độ lên án mạnh mẽ chế độ nông nô và bộ máy vua
quan áp bức dân lành.
Trong nhiều tác phẩm Shevchenko đã viết những vần thơ ca ngợi những con người
biết hy sinh để bảo vệ hạnh phúc của người mình yêu dấu. Ở Orenburg
Shevchenko đã sáng tác truyện thơ Petrus có lẽ dựa theo truyện kể của những
người tù hình sự bị đi đầy mà nhà thơ gặp họ trong những năm cuối của cảnh đi
đày. Số phận của chàng trai chịu tội thay cho cô gái yêu chàng tha thiết đối với
Shevchenko là hiện thực khách quan khiến nhà thơ đã viết nên những lời thơ ca
ngợi tình cảm trong sáng cao đẹp của chàng trai:
Hỡi em gái xinh tươi trong trắng
Cầu trời cho mẹ em đừng gả bán
Cho người ta đừng mối lái ép duyên
Vì chiếc lon vàng, vì lộng lẫy cung đền
Em hãy yêu thiết tha chung thủy...
Yêu tha thiết con người Shevchenko luôn cảm thấy lòng mình rạo rực sung sướng
khi viết được những lời thơ về giấc mơ những ngày hạnh phúc đẹp đẽ ngày mai: Ơi
đất mẹ nở hoa/ Thảo nguyên dài tít tắp/ Lòng rộng mở đất ơi/ Mầm tự do đón
nhận!
Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, bởi chính Nguyễn Du đã đề cập
đến vấn đề muôn thuở là vấn đề con người ở những khía cạnh đời thường nhất
được người dân lao động quan tâm đến nhất, vì thế mà trở nên trường tồn nhất: đó
là tình yêu và hạnh phúc con người. Yêu người tha thiết nên Nguyễn Du viết ra
những vần thơ không phải từ ngòi bút chảy ra mà từ con tim nhạy cảm đầy nhân ái.
Trong Truyên Kiều Nguyễn Du ca ngợi tình yêu Thúy Kiều – Kim Trọng, và mặc
dù để nàng Kiều lâm vào cảnh lưu lạc mười lăm năm, ngòi bút Nguyễn Du vẫn
luôn bênh vực Thúy Kiều. Dù bị sóng gió cuộc đời vùi dập thậm chí có lúc bị nhấn
xuống bùn nhơ, nhưng Thúy Kiều dưới ngòi bút của Nguyễn Du vẫn là con người
trong trắng chiếm được cảm tình của người đọc. Miêu tả số phận nàng Kiều một
cách chân thực, hợp với lẽ đời, không câu nệ bởi vấn đề trinh tiết của người phụ
8
nữ, Nguyễn Du thực sự đã vì hạnh phúc của con người bị cuộc đời vùi dập như
nàng Kiều mà viết nên những câu thơ xúc động đầy thuyết phục bênh vực cho
quyền được sống, quyền được yêu và bảo vệ tình yêu của người phụ nữ.
Lên tiếng phản kháng khi nhân phẩm con người bị chà đạp
Tiếp nối âm hưởng chống lại chế độ nông nô và bảo vệ hạnh phúc con người ở
trường ca Katerina, các thi phẩm sau đó của Shevchenko đã đề cập đến những nỗi
thống khổ của nhân dân và người phụ nữ dẫn đến cái chết thảm thương của người
đàn bà thường dân như trong Người đàn bà mù (1842), Mụ phù thủy (1847), Công
tước tiểu thư (1847), Marina (1847), Maria (1849).
Khác với trường ca Katerina, trong Người đàn bà mù nhân vật nữ đã trả thù tên
chúa đất và chị đã chết sau khi trả được mối hận thù. Qua cái chết của người đàn
bà mù Shevchenko đã lên án chế độ nông nô tàn bạo và lên tiếng kêu gọi đấu tranh
qua cách dùng thủ pháp nghệ thuật mượn câu chuyện cổ La Mã - chuyện tên bạo
chúa Neron, để mô tả nước Nga nông nô của Nga hoàng, mô tả những kẻ chuyên
chế độc tài, những tên chúa đất đè nén nhân dân, vẽ nên một nước Nga “nhà tù của
các dân tộc” đang đẩy nhân dân Nga vào cảnh tối tăm: Gia đình nào nước mắt
cũng thành sông/ Bởi người thân bị giam cầm ngục tối/ Hay bị đày nơi heo hút xa
xăm…Trong bài thơ nổi tiếng khác Không nói gở đâu, tôi nào có ốm đau… viết
ngày 22/11/1858, Shevchenko đả phá ảo tưởng đặt tất cả hy vọng vào Nga hoàng
Aleksandr II. Đối với nhà thơ không có vua hiền: “Vua chúa bao giờ cũng là lũ bạo
chúa và chuyên quyền, là kẻ thù của nhân dân lao động”.
Nhà thơ đã tiên đoán ngày cáo chung của chế độ chuyên chế Nga hoàng và tin
chắc lũ vua chúa, công hầu không thể tránh khỏi một kết thúc bi thảm: Gió lên từ
đồng nội/ Thổi bay hết bụi lầm/ Đường sạch quang rác rưởi... Cũng trong thời kỳ
này tư tưởng của nhà thơ ngày càng kiên định. Shevchenko là nhà thơ lúc nào cũng
lên tiếng chống lại những ảo vọng về một “Nga hoàng từ thiện” như Ghertxen
từng lầm tưởng. Ngay trước lúc bài xã luận của Ghertxen xuất hiện trên tờ Tiếng
chuông ngày 25/12/1859, Shevchenko đã kêu gọi: Nói thẳng đi anh, chần chừ chi
nữa/ - Những bàn tay nhơ nhớp lũ bay/ Nặn Nga hoàng thành thần tượng từ bi/ Rồi
truyền tụng vua là Thượng đế... Nhà thơ đã viết Bức thư từ một tỉnh lẻ, dưới ký bút
danh Một người Nga đăng trên tờ Tiếng chuông ngày 1/3/1860 để trả lời bài xã
luận của Ghertxen cố tình tán tụng Nga hoàng.
9
Bức thư từ một tỉnh lẻ đã gây một ấn tượng mạnh mẽ trong dư luận xã hội, nhất là
trong giới thanh niên. Qua bức thư mọi người đều nhận thấy tư tưởng kiên định,
dứt khoát của những người dân chủ cách mạng và cũng là của Shevchenko mà
trong đoạn cuối của bức thư Shevchenko gửi Ghertxen có những lời đanh thép:
“Ngài đừng rung Tiếng chuông báo giờ làm lễ mà hãy đổ những hồi tiếng chuông
cảnh tỉnh! Hãy kêu gọi nước Nga đứng dậy cầm lấy búa rìu. Ngài hãy nhớ rằng đã
hàng trăm năm nay đức tin vào thiên căn của Nga hoàng đã giết chết nước Nga.
Xin Ngài chớ làm kẻ nâng đỡ cho niềm tin đó”.
Đương nhiên ở nước Nga Sa hoàng tác phẩm của Shevchenko bị cấm xuất bản.
Sinh thời chỉ có gần 40 tác phẩm (tức là chỉ khoảng 1/5 toàn bộ sáng tác) của nhà
thơ được công bố. Hơn thế nữa suốt 10 năm bị lưu đày, Shevchenko vẫn bị lệnh
nghiệt ngã của Hoàng thượng “cấm viết và vẽ” ràng buộc. Chính vì vậy mà từ
những năm 1840 đến những năm 1860, các giới tiến bộ ở Ukraina cũng như ở nước
Nga đã không ngừng tiến hành cuộc đấu tranh để truyền bá những bài thơ cách
mạng của Shevchenko. Có thể nói, trong suốt những năm 1860, bên cạnh những di
sản văn học của Chernyshevsky, Dobroliubov, Ghertxen, Ogaryov và Nekrasov,
thơ ca của Shevchenko đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành
những tư tưởng dân chủ cách mạng, trong đó trong một số tác phẩm, Shevchenko
đã sáng tác với tư cách là người hoa tiêu của con tàu đi trong bão táp.
Nguyễn Du là một nhà thơ yêu nước, những nhân
vật được Nguyễn Du ca ngợi và kính trọng là những người yêu nước, những người
dám đứng lên chống lại sự áp bức của chế độ phong kiến vua quan. Đọc Truyện
10
Kiều không ai cầm được nước mắt, thương xót nàng Kiều, căm phẫn bọn quan lại
tham nhũng và bọn tay sai sâu mọt hại dân, hệ quả của chế độ phong kiến bất công
và cũng là nguyên nhân đẩy nàng Kiều lâm vào bước đường lưu lạc mười lăm năm
bèo dạt hoa trôi nhục nhã trăm bề. Với Nguyễn Du một nhà thơ yêu nước thì mỗi
cảnh ngộ, mỗi sự đày đọa đối với nàng Kiều đều chứa đựng trong đó thái độ của
tác giả: đó là sự phẫn nộ, một lời phản kháng gián tiếp nhằm vào những kẻ gây ra
tai họa. Dù nói trực tiếp hay bóng gió Nguyễn Du luôn lên tiếng bảo vệ nhân phẩm
con người chống lại bất cứ những gì chà đạp lên quyền sống và giá trị con người.
Nhưng do hạn chế lịch sử của thực trạng xã hội Việt Nam cuối thế kỷ 18 đầu thế
kỷ 19 và tư tưởng định mệnh, những lời thơ tâm huyết của Nguyễn Du chưa trở
thành những lời kêu gọi quyết liệt chống lại cường quyền và sự áp bức đè nén của
giai cấp phong kiến đang nắm quyền. Mặt khác do nguồn gốc xuất thân và vị thế
xã hội là một vị quan của nhà Nguyễn nên Nguyễn Du chỉ dừng lại ở sự giải thích
những hiện tượng bất công trong xã hội là Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!
Taras Shevchenko của Ukraina và Nguyễn Du của Việt Nam đều là những nhà
thơ yêu nước, những nhà thơ của nhân dân. Ở Ukraina và nước Nga Shevchenko
được mệnh danh là người Ca sĩ của nhân dân. Shevchenko là nhà thơ có nhiều thi
phẩm toát lên tinh thần nhân văn sâu sắc. Nhiều bài thơ trữ tình của Shevchenko đã
được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Việt. Ở Hoa Kỳ tại
quảng trường Dupont Circle ở Thủ đô Washington cách Nhà Trắng không xa
(khoảng 2km) giữa bùng binh ngã bảy ngã tám của những phố và đại lộ giao nhau
có một tượng đài toàn thân Shevchenko thời trẻ đã được dựng lên uy nghiêm và
trân trọng.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc của Việt Nam. Năm 1965 Nguyễn Du được Hội
đồng Hòa bình thế giới công nhận là danh nhân văn hóa và chính thức ra quyết
định kỷ niệm 200 năm sinh vào năm 1965 cùng với 8 danh nhân văn hóa thế giới.
Taras Shevchenko và Nguyễn Du là niềm tự hào của hai dân tộc Ukraina và Việt
Nam. Những thi phẩm của hai nhà thơ lớn, hai nghệ sĩ lớn sẽ mãi mãi gây xúc
động hàng triệu triệu trái tim người đọc.
N.X.H
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. I,Andreeva (1984). Nhà thơ vĩ đại của Ucraina. Tuần báo Văn nghệ, 21/4/1984
11
2. Lê Bá Hán – Trần Huyền Sâm (1997). Về khái niệm chủ nghĩa nhân văn. Tạp chí Tác phẩm mới. Hội Nhà
văn Việt Nam, số 3 năm 1997, tr.78-81.
3. Nguyễn Xuân Hòa (1984). Thơ Septrenco - tiếng thét căm phẫn của những người nông nô đòi giải phóng.
Tạp chí Văn học. Số 1 năm 1984, tr.148-157.
4. Nguyễn Xuân Hòa (1999). Taras Shevtrenco – người ca sĩ nhân dân của Ukraina. Tạp chí “Nghiên cứu
châu Âu”. Số 1 năm 1999, tr.24-27.
5. A.V. Rogoskin – Nguyễn Xuân Hòa (1988). Nhà thơ Ukraina Tarax Septrencô và nền văn học Nga. Tạp
chí “Nghiên cứu châu Âu”. Số 1 năm 1988, tr.14-17.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét