VỀ THƠ TÌNH NGUYỄN BÍNH

ĐÔI ĐIỀU CẢM NHẬN VỀ THƠ TÌNH CỦA THI SĨ NGUYỄN BÍNH
Nguyễn Xuân Lộc, Hội viên HNV HN, PCN CLB Thơ dịch,
Nguyên PCT thường trực Hội thơ Đường luật VN.
Ở nước ta, truyện Kiều được nhiều người đọc và số người thuộc lòng là rất
lớn. Về thơ cách mạng, thơ của thi sĩ Tố Hữu được đọc và được yêu mến rộng ở
khắp cả ba miền. Về thơ tình, có hai tác giả nổi bật là Xuân Diệu và Nguyễn
Bính (NB). Thơ tình của Xuân Diệu là thơ hiện đại, phảng phất phong cách
phương Tây. Thơ tình NB là thơ của tình quê, hồn quê, chân quê, đậm nét ca
dao, dân ca và phong vị dân gian. Trong di sản phong phú của NB với 284 bài
thơ, mảng thơ tình chiếm vị trí trung tâm, thể hiện một thế giới nghệ thuật vừa
quen thuộc vừa độc đáo. [Mở rộng (1)].
Trước hết, chúng ta lược qua đôi nét tiểu sử của nhà thơ.
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh ngày 13/2/1918, tại thôn
Thiện Vinh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định (Nay là tỉnh Thái
Bình). Khi ông mới 3 tháng tuổi thì mẹ mất vì bị rắn độc cắn (khi đó mẹ của
Nguyễn Bính mới 24 tuổi). Ông không được đi học ở trường, mà học ở nhà với
cha và với cậu, như ông từng tự nhận: “Còn tôi sống sót là may/ Mẹ hiền mất
sớm trời đày làm thơ”. Năm 18 tuổi (năm 1937), ông có bài thơ đầu tiên được
đăng báo, đó là bài “ Cô hái mơ”; cùng năm ấy ông nhận được giải thưởng của
nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Ông từn dạy học 2 năm ở Thái Nguyên. Từ năm 1939
ông trở nên rất nổi tiếng và viết khá nhiều thơ, trong đó có bài “Lỡ bước sang
ngang” rất được ca ngợi. Sau đó ông vào Huế, ở đó ông sáng tác hai bài thơ rất
xuất sắc, là “Xuân tha hương” và “Oan nghiệt”. Rồi ông vào Sài Gòn. Năm 1947
ông tham gia Việt Minh và kết hôn với bà Nguyễn Hồng Châu (là một cán bộ
của Việt Minh), sau đó hai người có con gái tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Về
sau ông kết hôn với bà Mai Thị Mới và có một con gái với bà Mới, tên là
Nguyễn Hương Mai. Ông kết hôn cả thảy 3 lần và có 4 người con. Năm 1954
ông tập kết ra miền Bắc, công tác ở NXB Văn nghệ và làm chủ bút báo “Trăm
hoa”. Ông mất vào đúng ngày cuối năm Âm lịch (29 tháng Chạp năm 1966).
Xem sơ lược tiểu sử nhà thơ, chúng ta có mấy nhận xét:
- NB bất hạnh vì thiếu tình mẫu tử: Ở bất cứ ai, tình mẫu tử là tình cảm ấm áp
nhất, thiết thân nhất và là thiêng liêng nhất. Tình mẫu tử được ngợi ca đẹp nhất,
nhiều nhất ở mọi loại hình nghệ thuật: văn, thơ, ca kịch, phim ảnh, tiểu thuyết,
vv … Vì vậy, người thiếu tình mẫu tử là người rất bất hạnh, trong đó có NB.
- Cuộc đời NB chịu nhiều cực khổ thiếu thốn. “Cơm áo không đùa với khách
thơ”, như lời Xuân Diệu từng nhận xét. Trong thư gửi cho con gái, ông đã thú
nhận sự bất lực vì cảnh nghèo: “Ở đây cha khóc vì thương nhớ / Gửi vọng về
con vạn chiếc hôn / Tiền cha không đủ hoàn lương mẹ / Còn lấy đâu mà nuôi
nấng con” (“Oan nghiệt”). Dường như luôn có tương ứng 1 – 1 giữa nhà thơ và
cảnh nghèo!
- NB bôn ba nhiều vùng miền, đã phiêu bạt trong hơn 20 năm, tức là chiếm gần
nửa cuộc đời của ông. Các nhà văn nhà thơ cần đi nhiều để thêm vốn sống và
tìm hứng thú thơ văn. Nhờ việc đi chơi núi Dục Thuý (Ninh Bình) mà Nguyễn
Trãi có hứng để viết nên bài thơ “Vọng Doanh” rất xuất sắc: “Buộc thuyền khi
đến Vọng Doanh chơi / Cảnh dậy hồn thơ, hứng dục người / Dục Thuý mưa tan
non sắc ngọc / Đại An triều dậy, nước màu trời”. Thi sĩ Tản Đà cũng là người
bôn ba nhiều: “Hôm xưa chơi ở Dương Quỳ / Trắng phau ngựa trắng xanh rì
rừng xanh / Hàm Rồng nay lại qua Thanh / Dưới cầu nước biếc in hình thi nhân
(“Qua cầu Hàm Rồng hứng bút”).
- NB đã tham gia Việt Minh và tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, thể
hiên rằng ông không chỉ là một nhà thơ tình rất lãng mạn mà còn có nhãn quan
chính trị đúng đắn.
- Mối lương duyên của NB với bà Nguyễn Hồng Châu, do đồng chí Lê Duẩn
làm mai mối, chứng tỏ ông có uy tín và có tình cảm tốt với lãnh đạo của Cách
mạng.
- Thủ tướng chính phủ Nam Kỳ đã hứa thưởng, rằng: “Ai dụ dỗ được tác giả của
“Lỡ bước sang ngang” “dinh tê” theo Chính phủ, thì sẽ được thưởng 1000 đồng,
hoặc nếu tác giả của “Lỡ bước sang ngang” tự thân tham gia chiêu hồi, thì cũng
được thưởng như thế. Hồi đó, 1000 đồng là khoản tiền rất lớn, trong lúc Nguyễn
Bính vẫn đang túng thiếu, lang thang ở Rạch Giá, “ngày thì ăn và ở nhờ nhà một
người bạn, đêm ngủ ở đình với chỉ một bao cói để tránh muỗi”, vậy mà Nguyễn
Bính nhất quyết không theo chiêu hồi. Điều này chứng tỏ NB có chí khí của
một sĩ phu yêu nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáng khâm phục![Mở
rộng (2)]
Phần chính của bài hôm nay là: chúng ta cùng trả lời câu hỏi “Vì sao thơ
tình của Nguyễn Bính được nhiều độc giả yêu thích đến thế?”, hay nói cách
khác: chúng ta hãy nêu các đặc điểm thơ tình của NB.
1) Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính gắn liền với đạo lí và phẩm hạnh.
Người con gái trong thơ NB không chỉ biết yêu, mà còn biết giữ gìn đạo đức,
phẩm hạnh. Họ e ấp, thủy chung, mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ
Việt. Họ ăn vận kín đáo và có duyên: “Nào đâu cái yếm lụa sồi? /Cái dây lưng
đũi nhuộm hồi sang xuân? /Nào đâu cái áo tứ thân? /Cái khăn mỏ quạ, cái quần
nái đen? / Nói ra sợ mất lòng em / Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa / Như
hôm em đi lễ chùa / Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh” (“Lễ chùa”). Cô gái
trong “Mưa xuân” là cô gái quê mới lớn, sống khép kín bởi những lề thói và gia
phong chặt chẽ: “Lòng trẻ còn như cây lụa trắng / Mẹ già chưa bán chợ làng
xa”.
Nguyễn Bính không bao giờ để tình yêu trôi nổi trong men say dục vọng hoặc
những phút giây phù hoa. Với ông, tình yêu phải trong như dòng sông quê, phải
được đạo lí nâng đỡ và được phẩm hạnh che chở. Trong thơ tình của NB, chúng
ta chỉ một lần thấy nói đến dục vọng, nhưng là thứ dục vọng được kiềm chế và
rất đáng trân trọng: “Người đi xây dựng cơ đồ / Chị về giồng cỏ nấm mồ thanh
xuân / Người đi khoác áo phong trần / Chị về may túi liệm dần nhớ thương /
Hồn trinh ôm chặt chân giường / Đã cùng chị khóc đoạn trường thơ ngây / Năm
xưa đêm ấy giường này / Nghiến răng nhắm mắt cau mày cực chưa / Thế là tàn
một giấc mơ / Thế là hết một bài thơ não nùng” (“Lỡ bước sang ngang”).
Chàng trai không dám thổ lộ ngay những lời yêu thương nồng cháy, mà phải “đi
hỏi vợ” đàng hoàng, phải “có trầu cau, có rượu”, phải đôi bên cùng ưng thuận …
Tình yêu ấy không chỉ là rung động của trái tim, mà còn là sự tự nguyện tuân
theo lễ giáo làng quê, là lòng tự trọng không cho phép mình sa ngã.
Thơ tình Nguyễn Bính vừa đằm thắm, vừa trong sáng, vừa da diết mà vẫn
cao quý – một thứ tình yêu có đạo lí làm nền, có phẩm hạnh làm rường cột.
2) Thơ tình của Nguyễn Bính thấm đượm nỗi buồn và trạng thái cách chia.
Người xưa quan niệm rằng: “Thi dĩ bi vi mỹ” (詩以悲為美), nghĩa là thơ lấy nỗi
buồn làm nét đẹp, hay nói nôm na là: Thơ có buồn thì mới hay.
Chúng ta chưa rõ NB có cùng quan niệm đó của người xưa hay không, nhưng
đọc thơ tình của ông, có thể thấy nỗi buồn, dù mức sâu đậm có khác nhau,
nhưng được xuất hiện ở hầu khắp nơi, ngay cả bài thơ vui, như bài “Mưa xuân”,
vẫn phảng phất một nét buồn.
- Đầu tiên là nỗi buồn cá nhân, buồn về tình duyên:
Thi sĩ Xuân Diệu đã có lúc buồn vô cớ: “Hôm nay trời nhẹ lên cao / Tôi buồn
không hiểu vì sao tôi buồn” (“Chiều”). Nhà thơ Trần Tế Xương có nỗi buồn
trống trải đơn côi “Kìa cái đêm này mới gọi đêm / Mắt giương không ngủ bụng
không thềm / Buồn này ai tỏ cho ta nhỉ / Tâm sự năm canh một ngọn đèn” (“Dạ
hoài”). NB có nỗi nhớ nhung thầm kín và đơn phương “Tương tư thức mấy đêm
rồi / Biết cho ai biế, ai người biết cho” (“Tương tư”).
Đã một số lần NB bị người ta từ chối tình yêu, chẳng hạn trường hợp với nàng
Oanh: “Tâm hồn tôi là bình rượu nhỏ / Rót lần rót mãi xuống nàng Oanh /
Không xua tay nhưng nàng đã vô tình / Hất li rượu hồn tôi qua cửa sổ” (“Tâm
hồn tôi”).
Ngay cả trong ngày cưới vợ, NB vẫn có nỗi buốn ấm ức pha lẫn bực dọc: “Hôm
nay tôi cưới vợ rồi / Từ nay tôi đã là người bỏ đi / Pháo ơi! Mày nổ làm gì /
Biến ra tất cả pháo xì cho tao” (“Cưới vợ”).
-Tiếp đến là nỗi buồn tha hương.
Khi xa quê, ai cũng buồn. Vì người buồn nên thấy cảnh không vui (mặc dù cảnh
vẫn vui): “Người buồn cảnh cũng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao
giờ”. Trường hợp thứ hai: người buồn và cảnh cũng buồn, khi đó nỗi buồn được
nhân đôi, được cộng hưởng – đó chính là trường hợp NB đã gặp: Khi NB vào
Huế, buồn vì xa nhà, lại là dịp Huế mưa phùn gió bấc kéo dài cả tháng, nên NB
đã viết bài thơ gửi cho người chị (có tên là chị Trúc) với biết bao nhung nhớ
trong ngày Tết đến xuân về: “Tết này chưa chắc em về được / Em gửi về đây
một tấm lòng / Ôi chị một em, em một chị / Trời làm xa cách mấy con sông / Em
đi dang dở đời sương gió / Chị ở vuông tròn phận lãnh cung / Chén rượu tha
hương, giời: đắng lắm / Trăng hờn nghìn giận một mùa đông / Chiều nay ngồi
ngắm hoàng hôn xuống / Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng!” (“Xuân tha hương”).
Đây là bài thơ thể hiện nỗi buồn tha hương sâu đậm nhất.
NB cũng theo motip của người xưa “Khử sầu duy hữu tam bôi tửu” (chỉ có ba
chén rượu để tiêu sầu): “Chị ơi Tết đến em mua rượu / Em uống cho say đến
não nồng / Uống say cười vỡ ba gian gác / Ném cái chung tình xuống đáy sông”
(“Xuân tha hương”).
Người xưa, như Lý Bạch, sống cách đây hơn một ngàn năm, chỉ mong chốn tha
hương được người ta chuốc rượu thật say, để không còn biết chốn tha hương này
là nơi nào: “Rượu quí Lan Lăng toả ngát ương / Đựng trong chén ngọc sáng
như gương / Giá như được chủ mời say khướt / Còn biêt nơi nao đất viễn
phương” (Bài thơ “Khách trung tác” – Làm thơ nới đất khách, Xuân Lộc dịch).
Ở chốn xa xôi (là quê chồng), người chị trong thơ ông đã gửi cho em gái nỗi
buồn đau thống thiết: “Đêm qua là trắng ba đêm / Chị thương chị - kiếp con
chim lìa đàn / Một vai gánh lấy giang san / Một vai nữa gánh muôn vàn nhớ
thương” (“Lỡ bước sang ngang”).
-Nỗi buồn trong thơ NB còn là nỗi buồn của những cuộc tình không trọn vẹn,
những duyên phận dở dang và nỗi buồn vì nhớ người yêu: “Chiều nay... thương
nhớ nhất chiều nay / Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy / Tôi uống cả em và
uống cả / Một trời quan tái, mấy cho say! ( “Một trời quan tái”).
Tuy nhiên nét buồn trong thơ tình của NB không bi lụy mà dịu dàng, sâu
lắng, chỉ như một màn sương mờ nhạt phủ trên cánh đồng xa.
Duy chỉ có một trường hợp riêng: Nỗi buồn sâu đậm nhất trong thơ tình của NB
được thể hiện qua bài “Viếng hồn trinh nữ”.
Trong cuốn “Thơ và giai thoại Nguyễn Bính”, nhà văn Vũ Nam đã kể một giai
thoại về bài thơ này như sau:
Một lần Nguyễn Bính cùng bạn là Vũ Trọng Can đang đứng ở nhà số 20 phố
Hàng Ngang, Hà Nội, thấy có một đám ma đi qua. Người ta nói đó là đám tang
một cô gái mới 16 tuổi, đẹp nhất phố Hàng Đào, ai cũng xuýt xoa thương tiếc.
Nhìn cỗ xe tang trắng, đôi ngựa trắng, vòng hoa trắng và những khăn sô trắng,
hai nghệ sĩ rất xúc động.
Đến chiều, Vũ Trọng Can làm xong một bài thơ đưa Nguyễn Bính xem, nhưng
Bính không nói gì. Hôm sau, Bính đưa bài thơ của mình cho Can xem, đó là bài
“Viếng hồn trinh nữ”. Can bèn cho bài thơ của NB vào túi áo rồi xé bài thơ của
mình và nói: “Ngày xưa Lý Bạch không làm thơ vịnh lầu Hoàng Hạc, vì trước
đó đã có thơ của Thôi Hiệu rồi. Nay có bài thơ của cậu thì thơ mình nên xé đi!”
-------------------------------------------------------------------------------------------------
Xin phép dừng lại để nói thêm về điển tích “Lý Bạch quẳng bút ở lầu Hoàng
Hạc”:
Lầu Hoàng Hạc nằm trên ghềnh đá Thiên Sơn bên bờ Trường Giang của thành
phố Vũ Hán. Vũ Hán được gộp lại bởi 3 thành phố bên sông Trường Giang, là
Vũ Xương, Hán Dương và Hán Khẩu (tương tự Budapest được gộp bởi 3 thành
phố bên sông Danuyp, tạo nên thủ đô của nước Hungari). Vũ Hán là nơi phát ra
bệnh dịch Covid-19 và trước đây khi 17 tuổi, tôi là lưu học sinh VN từng học
tập ở đây.
Ở trên mạng, người ta đã tổ chức một cuộc thi vui, với đề ra là: “Bạn hãy cho
biết một bài thơ luật Đường mà bạn yêu thích nhất”. Hơn 1500 người đã dự thi
với kết quả là: Bài thơ “Lầu Hoàng Hạc” đã đứng đầu. Bài thơ ấy như sau:
“Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ / Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu / Hoàng
hạc nhất khứ bất phục phản / Bạch vân thiên tải không du du / Tình xuyên lịch
lịch Hán Dương thụ / Phương thảo thê thê Anh Vũ châu / Nhật mộ hương quan
hà xứ thị? / Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Bài thơ của Thôi Hiệu đã thổi hồn cho lầu Hoàng Hạc, để rồi từ đó lầu Hoàng
Hạc được mang một sứ mạng văn chương cao cả. Trong bài thơ “Hán Dương
vãn diểu” (ngắm cảnh chiều ở Hán Dương), Đại thi hào Nguyễn Du đã viết
“Thi thành thảo thụ giai thiên cổ” - 詩成草樹皆千古, nghĩa là “Bài thơ hay làm
cho cỏ cây cũng được lưu danh ngàn năm”. Lầu Hoàng Hạc đã và sẽ sống mãi
cùng tuế nguyệt, nhờ bài thơ toàn bích của Thôi Hiệu.
Vào một ngày đẹp trời, Thi tiên Lý Bạch lên thưởng ngoạn lầu Hoàng Hạc và có
ý định làm một bài thơ về nó. Sau khi xem bài thơ của Thôi Hiệu, ông đã quẳng
bút đi, vì cho rằng chẳng thể làm thơ hay hơn bài “Hoàng Hạc lâu”.
Cũng giống như vậy, Vũ Trọng Can đã xé thơ của mình, sau khi xem bài thơ
“Viếng hồn trinh nữ” của NB. [Mở rộng 3: Thôi Hiệu và Thôi Hộ].
-------------------------------------------------------------------------------------------------
Một người trong cảnh huống đau thương mà mình gặp phải, hoặc người thân
nhất của mình gặp phải, có thể “rút gan ruột” để viết nên những bản nhạc hoặc
bài thơ để đời. Chẳng hạn, khi Bác Hồ mất, các nhạc sĩ đã sáng tác những bài
hát mà bài nào cũng rất xuất sắc. Hoặc nhạc sĩ Thanh Tùng khi ở tuổi 40, đã trút
hết nỗi xót thương người vợ đột ngột ra đi, để lại cho ông cuộc sống bơ vơ cùng
3 con dại, bằng bài hát “Một mình” làm xúc động mọi người nghe. Khi biết
người vợ trẻ xinh đẹp của mình (cô Đỗ Thị Ninh) bị chết đuối, Hữu Loan đã
khóc vợ bằng bài “Màu tím hoa sim” – một bài thơ làm thổn thức bao con tim
người đọc: “Tôi về không gặp nàng / Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối /
Chiếc bình hoa ngày cưới / Thành bình hương tàn lạnh vây quanh / Tóc nàng
xanh xanh / Ngắn chưa đầy búi / Em ơi giây phút cuối / Không được nghe nhau
nói / Không được gặp nhau một lần”. [Mở rộng (4)].
Có thể có ai đó cho rằng tôi đã đi lạc đề chăng? Xin thưa, những điều tôi vừa nói
như quân xanh trong một trận đánh, mà quân đỏ chính là NB và bài thơ “Viếng
hồn trinh nữ”.
Xét hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Viếng hồn trinh nữ” của NB: Không thuộc vào
cảnh huống đau thương như Hữu Loan hay Thanh Tùng, Nguyễn Bính đang ở
trên đường và thấy đám tang một cô gái (nghe nói mới 16 tuổi và đẹp nhất phố
Hàng Đào), không là bà con thân thích và không hề quen biết, vậy mà NB đã
sáng tác nên một bài thơ hay đến thế và xót xa đến thế! Điều này làm nổi rõ 3 ý:
a) NB là con người rất đa cảm, đa tình.
b) Dân ta có câu ngạn ngữ “Nghĩa tử là nghĩa tận”. NB thương xót cô gái đã
chết, mà lại chết khi mới 16 tuổi, NB là người có lòng nhân đạo sâu sắc. Vichto
Huygo và Nguyễn Du trở thành những đại thi hào, vì họ trước hết có tình
thương sấu sắc những người cùng khổ.
c) NB là người rất tài thơ!
Tôi xin đọc lại bài thơ thơ này để quí vị cùng nghe (Sau rất nhiều năm, đến nay
tôi vẫn thuộc bài thơ này).
Trạng thái cách chia cũng là một nét nổi trội trong thơ tình của NB.
Trong “Mưa xuân” độc giả được biết một cô gái quê mới lớn, với mối cảm tình
vừa nhen nhóm với chàng trai, nhưng sau đêm hội thôn Đoài, đành tự nhận về
sự chia li bất định: “Anh ạ, mùa xuân đã cạn ngày / Bao giờ em mới gặp anh
đây?”. Người đọc thấm thía sự chia li đầy xót xa của cô gái trong ngày đi lấy
chồng, khi đọc “Lỡ bước sang ngang”. Còn mối tình với cô gái hàng xóm, đẹp
lung linh bởi hình ảnh con bướm trắng, nhưng kết thúc bằng cái chết của cô gái
ấy: “Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng! / Mau về mà chịu tang nàng đi thôi! / Đêm
qua nàng đã chết rồi / Nghẹn ngào tôi khóc ... Quả tôi yêu nàng.” (“Người hàng
xóm”). Khi Tế Hanh nghẹn lời nói về những cuộc chia li: “Tôi thấy thương
thương những chuyến tàu / Ngàn đời không đủ sức đi mau / Có gì nghèn nghẹn
trong hơi máy / Toa nặng mang đầy những khổ đau” (“Những chuyến tàu”), thì
NB đau lòng nói về “Những bóng người trên sân ga”: “Tôi đã từng chờ những
chuyến xe / Đã từng đưa đón kẻ đi về / Sao nhà ga ấy sân ga ấy / Chỉ để cho
lòng dấu biệt ly.”. Hình ảnh sân ga gợi nỗi buồn của sự li tán và cũng là nỗi
buồn cho thân phận con người!
3. Thơ tình Nguyễn Bính mang đậm hồn quê và chất dân gian.
Những câu chuyện tình trong thơ của NB thường diễn ra trong bối cảnh làng quê
Việt Nam với lũy tre, giếng nước, con đò, dậu mùng tơi, phiên chợ, vv ...
Khi phong trào thơ mới vừa nổi lên, có nhà thơ theo chủ nghĩa tượng trưng siêu
thực (Chẳng hạn, Xuân Sanh đã viết câu thơ bí hiểm “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải
hà” (“Buồn xưa”); có nhà thơ theo văn phong phương Tây (như Xuân Diệu),
còn NB trở về với ca dao, dân ca và văn hóa dân gian. Ông tự tạo cho mình một
lối đi riêng. Ông là nhà thơ của tình quê, hồn quê, chân quê. Nhà thơ Tô Hoài
từng nhận xét: “Nguyễn Bính ở riêng một góc trời với một mảng thơ đất quê.
Khi tâm hồn và sự chân thực đi cùng thơ, Nguyễn Bính đạt tới toàn bích”. Trong
truyện dân gian có tích trầu cau rất ấm tình người và NB cũng dùng chính tích
đó để viết nên câu thơ ỡm ờ rất có duyên: “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông / Cau
thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?” (“Tương tư”).
Hồn quê trong thơ NB còn được thể hiện thật rõ trong bài “Chân quê”: “Hoa
chanh nở giữa vườn chanh / Thầy u mình với chúng mình chân quê / Hôm qua
em đi tỉnh về / Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”.
4. Thơ tình của Nguyễn Bính rất tự nhiên và có chất nhạc đặc biệt, làm cho
người đọc dễ nhớ dễ cảm.
- Phong thái tự nhiên nhưng không dễ dãi:
Chúng ta biết rằng: thơ được viết càng tự nhiên sẽ càng hay. Độc giả từng yêu
thích những câu thơ được viết rất tự nhiên mà lay động hồn người của cố thi sĩ
Đồng Đức Bốn: “Mẹ mua lông vịt ve chai / Trời trưa mưa nắng hai vai lại gầy /
Làng quê còn lắm bùn lầy / Phố phường chỉ ít bóng cây che đường / Lời rao
chìm giữa gió sương / Con đi cách mấy thôi đường còn đau” (“Trở về với mẹ ta
thôi”). Thơ NB lời bình dị, như tiếng nói thường ngày, như lời thủ thỉ tâm sự:
“Em ơi, em ở lại nhà / Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương / Mẹ già một nắng
hai sương / Chị đi một bước trăm đường xót xa / Cậy em ở lại nhà / Vườn dâu
em đốn mẹ già em thương” (“Lỡ bước sang ngang”). Bài thơ “Lỡ bước sang
ngang” gồm 110 câu thơ Lục bát, được xuất hiện lần đầu trên “Tiểu thuyết thứ
năm” vào năm 1939. Sau khi được đăng, bài thơ đã nổi danh khắp nơi. Bạn đọc
đủ mọi tầng lớp, từ bình đân đến trí thức, đều yêu thích và rất ca ngợi bài thơ
này. [Mở rộng (4)]
- Chất nhạc trong thơ NB rất đặc biệt:
NB thường sử dụng thể thơ Lục bát – thể thơ truyền thống của dân tộc – nhưng
với cách gieo vần linh hoạt, nhịp điệu tự nhiên, cảm xúc chân thật. Thơ Lục bát
của NB thường gieo nhịp 2/2/2 (ở câu 6) mà ít gieo theo nhịp 3/3 gắt hơn, nên
thơ thường chậm và có nhịp điệu du dương. (Trong 1627 câu lục của truyện
Kiều, cũng chỉ có 16 câu lục gieo nhịp 3/3). Tình trong thơ ông được ngân lên
bằng âm hưởng ca dao, dân ca. Nhịp thơ thường da diết, tạo nên giọng điệu
riêng không thể lẫn với ai khác trong phong trào Thơ mới.
Kết luận:
Thơ tình của Nguyễn Bính giản dị mà sâu xa, thiết tha và kín đáo, không chỉ là
lời tỏ bày của con tim, mà còn là bản nhạc tâm hồn của người Việt - nơi mà quê
hương, đạo lý và tình yêu hòa quyện với nhau, khiến người đọc dù ở thời nào và
dù ở lứa tuổi nào cũng thấy mình trong đó. Ông là nhà thơ của nhiều thời đại.
Rất nhiều bài thơ đặc sắc của NB được Nhân dân ta yêu thích và thuộc nằm
lòng, như: Lỡ bước sang ngang, Xuân tha hương, Viếng hồn trinh nữ, Oan
nghiệt, Tương tư, Người hàng xóm, Mưa xuân, Cô lái đò, vv ... Đọc những bài
thơ rung động hồn người đến thế, không độc giả nào lại có thể không yêu thích
thơ tình của Nguyễn Bính!
Nguyễn Bính là một nhân cách đẹp, một hồn thơ rất đằm thắm và đa tình. Thơ
Nguyễn Bính luôn sống mãi trong kí ức dài lâu của văn chương nước ta!
NXL (Tháng 11/2025)
Phụ lục: Về hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Oan nghiệt”.
Kính thưa quí vị!
Cuộc đời tôi trong 39 năm công tác, chủ yếu là giảng dạy Toán ở ĐH Thuỷ Lợi,
có trừ ra 5 năm đi phiên dịch tiếng Anh ở nước ngoài. Hôm nay được nói
chuyện về văn thơ trước quí vị, tôi có 2 mặc cảm: 1) Mặc cảm tự ti và 2) Mặc
cảm về việc mạo muội “Đánh trống trước cửa nhà Sấm”.
Tôi mong nhận được sự cảm thông và những lời chỉ giáo của quí vị.
Xin trân trọng cảm ơn! NXL.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét