NGỌC CĂN VỚI TẬP HAIKU “CÁNH CHIM NHỎ LẠ”
Cảm nhận tập “Cánh
chim nhỏ lạ”, nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2016
Vũ
Nho
Câu lạc bộ “ Haiku Việt, Hà Nội”
có nhiều thành viên làm thơ Haiku, có một
số người đã được in trên Tạp chí Haiku thế giới khi dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp
và tiếng Nhật. Các Haijin ( người sáng tác Haiku) của câu lạc bộ Hà Nội công bố sáng tác của mình trên Tạp chí, báo, và
trang Web Haiku Việt, đồng thời in thành một phần trong tập thơ riêng như Cao
Ngọc Thắng, Phùng Gia Viên. Có người in
cả tập như chủ nhiệm Đinh Nhật Hạnh với tập “Trăng bùa” bốn thứ tiếng Việt Anh, Pháp Nhật. Các tác giả
in thơ thành tập riêng là Đinh Trần Phương, Nguyễn Thị Kim, Phan Vũ Khánh. Ngọc Căn thuộc
số ít hội viên in cả tập 352 bài Haiku. Phải chăng, tác giả vốn là người thích
làm thơ ngắn nên dễ dàng tiếp cận và say sưa với thơ Haiku? Sáu tập thơ in riêng
thì có 3 tập là thơ bốn câu là Người về (2006), Trăng (2010), Hoa(2016). Có lẽ đó
là một phần của lí do. Phải chăng vì còn
có con dạy tiếng Nhật, cháu học tiếng Nhật nên ông làm thơ Nhật? ( 72. Con dạy tiếng Nhật/ Bố luôn ngỡ ngàng/ Cô
gái Phù Tang; 73. Cháu vào học lớp tiếng
Nhật/ Ông chờ ở ngoài/ Làm thơ Haiku). Lí do chính là tác giả say mê với một
kiểu thơ du nhập từ Nhật Bản, ngắn, gọn, gợi mở nhiều về vạn vật xung quanh qua
cảm nhận của cá nhân người viết.
Có thể thấy Ngọc Căn là người yêu
mến thiên nhiên. Chẳng thế mà hai tập thơ 4 câu có nhan đề ngắn gọn là “Trăng”
và “Hoa”. Trăng là vẻ đẹp của vũ trụ, còn hoa là vẻ đẹp của mặt đất. Qua những
bài Haiku, Ngọc Căn thể hiện tình yêu trăng
của mình:
17. Đang làm thơ/ Sực nhớ rằm/ Ra ngắm trăng.
128. Mặt trăng/ Bông hướng dương/ Giữa trời đêm.
22. Tiếc đèn để suốt đêm/ Không ai tiếc?/ Trăng thâu giãi ngoài thềm.
Cái ánh trăng giãi ngoài thềm gợi ánh trăng trong ca dao, gợi
ánh trăng giãi trên vườn chè trong thơ
Nguyễn Bính. Ánh trăng còn có thể gợi nhớ đến câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm : Non Kì quạnh quẽ trăng treo/ Bến Phì gió thổi
đìu hiu mấy gò trong bài số 25 : Mộ
viễn chinh/ Đồi hoang/ Trăng.
Vũ Nho - chủ trang
Khi có điện thì trăng bỗng bị lu
mờ, hơn thế nữa , trăng bị coi như người dưng trong thơ Nguyễn Duy: “Từ hồi về thành phố/ Quen ánh điện, cửa
gương/ Vầng trăng đi qua ngõ/ Như người dưng qua đường” (Ánh trăng). Vì yêu
trăng cho nên khi “mất điện” lại vào ngày rằm thì không phải tai họa, mà là may
mắn, khiến lòng phấn khích vì được nhìn chị Hằng đi bán lụa (91. Mất
điện/ Chị Hằng/ Đi bán lụa):
68. Điện mất/ Trăng rằm mênh mông/ Lòng công đang múa.
72. Đêm rằm/ Mất điện/ Thi sĩ trong bị múa tay.
Yêu thích trăng, nhưng là vầng trăng trong không gian khoáng
đạt, chứ không phải là vầng trăng nhìn từ song sắt quây kín của phần lớn các nhà tầng ở Hà Nội.
Nhìn trăng như thế, có khác nào cách ngắm trăng của cụ Hồ khi trong nhà ngục “
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt”? Khác biệt là ở chỗ cụ Hồ bị bắt, bị nhốt
vào ngục. Còn bây giờ, người ta tự làm ngục nhốt mình. Phải thế chăng mà tác giả
viết:
90. Sân thượng, song sắt/ Ngắm trăng/Như tù.
Về chủ đề hoa, Ngọc Căn cũng có những bài haiku đáng ghi nhận, suy ngẫm.
36. Mùa xuân/ Đưa cháu đi học/ Được cả mùa hoa
Hoa ấy là hoa thật tưng bừng mọi nẻo xuân, ở đâu cũng gặp.
Nhưng lại cũng có những bông hoa không tự nhiên, hoa tưởng tượng. Vì rau xanh cũng là các loại cây có những bông hoa. Chẳng hạn rau muống, rau cải, rau xúp lơ có hoa muống,
hoa cải, hoa xúp lơ. Bởi thế mới có chuyện tưởng bất thường:
32. Mắt không lóa/ Nhìn quầy rau/ Tưởng quầy hoa.
Đây chính là cái nhìn “xuyên thấu” thường gặp trong các bài
Haiku Nhật Bản.
Hoa là biểu
tượng của cái đẹp. Cho nên yêu hoa, yêu người đẹp như hoa. Không tránh khỏi có
lúc bất chợt buồn : “151. Em đẹp như hoa/ Buồn/ héo mất thôi”. Nhưng
không thể khác là yêu hoa mãi, như yêu vợ,
tình yêu chung thủy giúp con người bình an:
45. Yêu vợ đến già/ Yêu hoa đến tàn/ Đời ta bình
an
Và chàng thi sĩ đa tình theo cô nàng mặc áo hoa lưng ong cũng
chỉ vì mê cái đẹp:
93. Em mải đạp xe/ Tôi theo lưng ong/ Không! Vườn
hoa di động.
Vườn hoa di động ấy có bông hoa to nhất, quyến rũ nhất là
hoa người!
Hoa là niềm an ủi, động
viên, vẫy gọi người ta. Hoa quỳnh nở sau mưa thật đẹp , thật lãng mạn vì:
104. Chập tối mưa mát/ Hoa quỳnh nở/ Giấc mơ thơm.
Hoa giúp yên tâm đi tiếp đoạn đường xa còn lại:
170. Ngắm hoa/ Đi nốt/ Chặng đường xa.
Nặng lòng vì hoa, nên người viết ngậm ngùi khi hoa nở mà không
có người đoái trông. Ta hiểu vì sao nhà
thơ Nguyễn Hoàng Sơn viết “Đợi mắt nhìn mới nở”:
302. Quê nhà bỏ không/Bao bông hoa nở/ Không người
đoái trông.
Và tác giả phải buột kêu lên khi người ta phũ phàng với hoa,
phũ phàng với cái đẹp:
203. Hội nghị nửa buổi sáng/ Họp xong hoa vứt
ngay/ cánh tươi giẫy đành đạch.
Bài thơ này,
nếu chặt chẽ theo tinh thần Haiku Nhật Bản thì nó thuộc loại thơ Senryu vốn là
chị em với Haiku. Theo tác giả Lê Thị Bình một Haijin và cũng là người thông thạo
tiếng Nhật thì đặc điểm khác biệt giữa Haiku và Senryu chủ yếu là Haiku thì gợi
vẻ đẹp tự nhiên, còn Senryu thì có mục đích
trào lộng (warai) và châm biếm (ugachi). ( Thơ Senryu và thơ Haiku – trong Kỷ yếu
: Tọa đàm thơ Haiku Việt nam - Nhật Bản lần thứ nhất, trang 147)
Phần 1 của tập thơ “ Cánh chim nhỏ
lạ” gồm “ Thiên nhiên…Thế sự…”. Phần 2 của tập là “ Vui… Thoáng…”. Có thể nói rằng
vì là Haiku Việt, cho nên tác giả cũng không cần phân chia rạch ròi Haiku và Senryu
vốn là hai thể thơ chị em tách ra từ “Ren ga” ( Liên ca) của Nhật.
Có thể gặp một Ngọc Căn đa dạng, đa
thanh trong những khúc Haiku Việt về nhiều
cảnh huống, nhiều vấn đề trong cuộc sống hàng ngày vốn vất vả và nhiều nỗi
buồn, lắm niềm vui.
8. Cạnh hồ/ Tôi hít vào/ Hồ thở ra
Thì ra người với hồ đã nhập làm một
để cùng duy trì sự sống bằng việc hít thở. Phải chăng đây là một cách nhập “thiền”? Và cũng
vì thế cho nên mới có thể quan niệm “ 56.
Ngồi bên hồ thu/ Không làm thơ/ vẫn là thi sĩ”. Hồ thu là một bài thơ. Người
ngồi bên hồ cũng nhiễm lây chất thi sĩ của thiên nhiên. Lại nhớ câu thơ của Chế
Lan Viên : “ Bài thơ anh, anh viết một nửa thôi/ Còn một nửa để cho mùa Thu làm
lấy”.
43. Toà nhà mới dựng xong/ Ta mất/ Một chân trời thăm thẳm.
Thì ra cuộc sống không có được mãi. Mà khi được cái này thì phải
chịu mất cái kia. Vấn đề là lựa chọn!
86. Cây đa vẫn còn/ Cô lái đò đâu mất/ Lem luốc anh máy phà.
Một niềm hoài cổ, thương tiếc vẻ đẹp
xưa. Bây giờ có nhiều cầu, con đò ngang trở thành dĩ vãng, cô lái đò cũng biến
mất với thời gian. “ 80. Cầu mọc nhiều, to/ Hiếm dần bến đò/ Thơ Nguyễn
Bính thành đặc sản”.
Một niềm vui lắm bạn vì “ 7. Tôi/ Nối khố/ Với sách” cho nên “176. Trên giá đầy sách/ Trước mặt ti vi/ Một
mình lắm bạn”.
Một nụ cười hài hước giễu mình:
317. Chợt mưa đêm mùa hạ/ Vợ nằm riêng đã già/ Ta thanh tịnh – thăng hoa.
Và giễu người:
332. Ra dáng quân tử/ Không ngó đàn bà/ Treo tranh mĩ nữ.
Cười giễu sự đời:
333. Vợ già, chồng trẻ/ Chồng trẻ, vợ già/ Hợp lí vì…tiền.
Về hình thức thơ, Ngọc Căn chú ý
đến vần điệu, đến đối ngẫu, đến tương đồng, tương phản. Anh đã học tập nhiều ở cách thể hiện trong thể
loại tục ngữ của dân tộc.Trong tổng số 352 bài, không phải là không có bài còn
chưa thật đặc sắc. Nhưng có cả một tập thơ Haiku thì đúng là tác giả đã đem vào
bầu thời thi ca “cánh chim nhỏ lạ”!
Xin được chúc mừng tác giả cùng với
Câu lạc bộ thơ Haiku Việt của thành phố Hà Nội!
Ngày 3 tháng 5 năm 2017
Bài in trên Diễn đàn VNVN, số tháng 5/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét