Vài lời tản mạn về
CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN
VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
*
Tôi từng đọc chân
dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm…
Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra
lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm
ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của Nguyễn Khôi. Chà chà… Văn
tài như “lá rụng mùa thu”, phen này đất Việt Văn Hiến lại bùng nổ nhân tài “đặc
biệt” kỳ vĩ đây. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là chín rưng rức, tràn trề
thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ Hoàng đa năng táo bạo,
giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá Thâm dò dẫm dàn dựng,
gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn tru tuồn tuột; Trần
Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn trải,… Mỗi ông đều
là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác phẩm quá khứ hiện tại
rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng nghe cũng thỏa mãn cái
tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt, ngấy ngộ... Theo tôi, đã
là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ
thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ, mà chụp cái thần sắc để
thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo ngắm, thưởng lãm... Còn bác
Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? Rất tốc độ, thật lòng, thật sự ra công cố sức đôi
khi nín thở, dồn hơi, gắng bứt vượt, cố đèo bòng.... Có lẽ bởi cái bóng cái tán
của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ khu của Trần Nhương...
Và thêm phần tuổi tác sức khỏe nên tác phẩm của bác phần nhiều viết bằng chí
năng nên phần dương khí cương cường lộ liễu, nhiều câu na ná, công thức bài
bản, xem mặt kể tên, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu chữ số phận của mỗi
“nhà” rồi sắp đặt lắp ghép thành “chân dung” nên cứ na ná, trùng lẫn.
Ngay cái
tít Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ hoành
tráng quá, giá tác giả hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi tâm ý
hoặc chẳng cần quốc hiệu đương thời bảo lãnh thì sẽ nhẹ nhàng dễ gần dễ cảm
hơn. Dù sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái tuổi lẽ ra
cụ cứ ngự lãm khề khà trà rượu, cháu chắt hầu hạ kính cẩn ấy thế mà cụ vẫn cố
dồn công lực phát tiết nội sinh làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế. Thứ hai là
cụ đã hùng dũng thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài thần thánh”
một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm hồn khoáng
đạt và sự từng trải, tác giả đủ bản lĩnh dũng cảm dám lên tiếng bảo vệ nhân
văn, nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng
cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm của Nguyễn
Khôi sẽ rõ: /chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html.) Thứ tư, tác giả nhân ái, công tâm,
giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa văn
chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác biệt đặc biệt… mà viết chân dung văn học
thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải tìm kiếm, điểm danh, lựa chọn, tuyển chọn những
gương mặt đặc biệt khác biệt, hữu danh tài đức, đã có tác phẩm vang dội, gây
ảnh hưởng lớn trong xã hội...Mọi sự so sánh đều khập khiễng, soi mói, dòm ngó
chê bai thì “chó nó cũng làm được”. Thôi, có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa, chúng
ta hãy chúc mừng tác phẩm đã mẹ tròn con vuông, đã thành sách truyền bá, xin
“Kính tích tự chỉ.”.
Tôi nhấm nháp
thưởng lãm một số chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất, khoái nhất là tài nghệ
của lão thi bá, chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò bó khuôn khổ, buộc bốn
câu bốn chức năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không đúng đủ bốn chức năng ấy
thì bài thơ lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn, nhạt nhẽo, vô hồn, thất
sắc, nếu đủ đạt thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động lồng lộng vô vi, ví như
Chân dung số 1 - Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã tuyệt rồi (Tự cho mình
là Lành/ mọi người thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.), cả
nghĩa đen và nghĩa bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn mặt.
Sự cố “cây táo ông Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính khách,
hung thị chuyên gia Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho văn nghệ
sĩ. Thế là được rồi, cần gì khổ 2 nữa, nó diễn giải dài dòng, kể lẽ be chắn,
thiếu tập trung mất đỉnh điểm. Chân dung số 2 – Chế Lan Viên, câu kết “giấu đi
mặt ma chơi”, không hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp
bai on” của Chế không nhỉ? Nguyên bản là thế này: “Anh là tháp bai
on bốn mặt / giấu ba mặt còn đó là anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm đau
ba mặt phía ẩn hình”. Rõ ràng cái câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn hối
lỗi, dằn vặt về cái thời danh lợi, giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm, phật
tính chứ đâu phải là “ma chơi”.
Tiếp theo, tôi xin
vỗ tay chân dung mà ông phác thảo tương đối đạt, cụ thể: Chân dung số 6 - Xuân
Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể nhắc, hai câu sau tuy không vẽ kẻ nhưng nổi bật
gương mặt chính khách lịch lãm trí thức, nhân vật đặc biệt góp phần quan trọng
làm nên lịch sử dân tộc, khi khúc mắc đã bật, đã phát lời tuyên ngôn bất hủ “Không
giam được trí óc”, khẳng định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị
giam hãm, trói buộc. Đến chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai
thoại một thời. Một nhà thơ nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa
mở”: “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn
trăng nước Mỹ”, “Bao giờ ta đủ tầm cao/ để ta bắt được vì sao trên trời”.
Động cham một loạt nguy lụy theo bởi cái thời bao cấp mậu dịch, đồng ca minh
họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt, Nguyễn Khôi nộ, nỡm: “Ta cái gì cũng hồng/
đich cái gì cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm. Câu thơ khuyết hậu. “Trảm”,
chỉ một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh ngắt sám sịt tử khí của
cái thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo. Nổi bật chân dung vững
vàng bản lĩnh Việt Phương.
Chân dung thứ 9 -
Hữu Thỉnh. Cái ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm cũng chỉ thường thường
bậc trung, viết phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên ngôi”
thì hơi quá. Thơ Hữu Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà “xoàng
xĩnh” thì hơi oan. “...Ghế cao anh ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì
anh đã cố công chạy ngược chạy xuôi…. “Điếu văn hót tới đỉnh” chứng tỏ
anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý thì mới có “điếu văn hót tới đỉnh”.
Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ lực và say ghế thì ghế anh ngồi cũng
xứng thôi.
Tiếp đến Hoàng
Cầm. Nói đến Hoàng Cầm là thấy “diêu bông”, “mưa Thuận Thành”, “Hạt
mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên khoai/ hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa
sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng... Thuận Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo
dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng
Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy
Đình Bảng buông chùng xuống/ đâu thấy lá diêu bông”. Đã đôi lần tôi được
hầu rượu nhà thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa bác lá diêu bông là gì? Mặt ông
chùng xuống, đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau một vại rượu, ông thủng thẳng:
Thế ông không đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu
non cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông hời.../... ới diêu bông. Hóm quá.
Tế nhị tinh vi quá! “Váy Đình Bảng buông chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”.
Vì không thấy nên ông bị 8 tháng ngồi Hỏa Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ
lá “diêu bông” bị 4 năm bóc lịch. Thì “mưa Thuận Thành tầm tã” thì ông đành,
ông đã, ông phải, ông lại “ngây ngất ả phù dung”.
Chân dung 14 -
Trần Dần. Một tài thơ nổi trội, một nhân cách chân chính nói tiếp qua 2 câu
thơ: “Tôi khóc những chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2
câu thơ nổi tiếng của Trần Dần: “Tôi khóc những chân trời không có người
bay/ Tôi khóc những người bay không có chân trời”. Câu thơ ẩn dụ ám ảnh
khiến ta liên tưởng tới cái xã hội đương thời... Đời là thế đấy. Người bay thì
không có chân trời. Chân trời thì không có người bay. Ôi thương xót cho nền văn
học, số kiếp văn nhân của thời đã qua. Trần Dần đau đớn xót xa cho thế sự nhân
sinh, ông kiên cường tin tưởng vững chắc vào chân chính làm nên tác phẩm “Nhất
định thắng... công toi”. Xin thưa! Công không toi đâu. Tài năng và sự can
trường hy sinh đã để lại cho đời tác phẩm giá trị. “Cổng tỉnh” đã
được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.
Chân dung 15 - Lê
Đạt. Lê Đạt là người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi, Trần Dần, Phùng Quán,
Phùng Cung, hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù túng thiếu thốn lấy thơ
làm nỗi sống niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ lai ghép, lắp ghép, thử
nghiệm, sáng tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”, người “phu
chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể, dẫu đã nhiều
phen e chề, thất bại. Nguyễn Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ hiểu và đồng
cảm, nắm vững giải mã được “bóng chữ” của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/
tỉa bay mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ
còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm
ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm thúy gợi mở của Tàu, cái
tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù mờ, ỡm ờ tốc độ súc giác
của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản mạn quá. Sao mà đủ tài đủ
sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tang bí ẩn huyền ngã… Vậy tự thổi còi thư
bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số chân dung.
Thưa lão thi bá! Ở
nhóm mảng tiền bối danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn khổ khắt khe gò bó cô đọng
của thể thơ tứ tuyệt nên một số chân dung chỉ thấy chân tướng, ví dụ như bài 21
- Xuân Diệu: “Đồng tính” bị đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói
mới”/ đi “nói chuyện thơ mình”. Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói
mới” “Nói chuyện thơ” để ghép thành bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ”
nhưng chưa “tuyệt”, vì đây mới là cái chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời
của Xuân Diệu chứ đâu phải là cái góc cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ
Xuân Diệu. Hoặc Huy Cận, cái thành công vang dội trường tồn của “Lửa
thiêng” và “Mỗi ngày mỗi sáng” thì thi trường và thời
gian đã thử thách thừa nhận Huy Cận là nhà thơ cảm quan vũ trụ, có cảm quan
nhân sinh quan tuyệt hảo ngất ngất... Sau này gia đình ông có chuyện riêng
không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con trai có quan điểm sống khác, dù sao đó cũng là
chuyện của mỗi gia đình chứ có làm tắt “Lửa thiêng” đâu? Còn việc tên đường phố
thì có cũng hay, chưa có thì cũng đừng ngạc nhiên, chớ như ai kia đã rút hai
câu “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi
suy diễn, áp đặt, chụp mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả
đời thơ ông nổi bật bài “Đêm nay Bác không ngủ”. Bài thơ của ông
là tấm lòng, tiếng lòng của những người lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối
trung thành, kính trọng yêu thương Bác. Đó là cái tình đồng chí, tình cha con,
sao lại “Vợ dí thơ... Tính tình/ Bác là Hồ Chí Minh/ Tỉnh tình đâu mà
dí”. Có thể tác giả chỉ đùa nỡm chơi chữ vui vui nhưng đọc thấy thô tục vô
độ thế nào ấy. Đọc 4 câu số 26 này, tai tôi vẳng lên câu ca dao “Em xinh lời
nói cũng xinh/ Em giòn thì cái tỉnh tình tinh cũng giòn”. Hoặc câu vè tếu
táo mà Nguyễn huy Thiệp, Bảo Sinh, Bùi Hoàng Tám tranh nhau nhận: “Vợ tôi dở
dại dở khôn/ Vợ tôi nó lại dí... vào thơ.”. Đừng để công chúng hiểu lầm bởi
các ám ngữ phóng từ tùy tiện này, nhất là với vị lãnh tụ kính yêu.
Chân dung 35 -
Phùng Cung. Tác giả hai câu thơ: “Lên đệnh khắp nước cùng non/ Dạt vào ao
cạn vẫn còn lệnh đênh.” Vì cái truyện ngắn Con ngựa giá chúa Trịnh
mà mắc nạn, bởi bọn “lính gác” văn chương, mấy tay chỉ điểm mong ông bị tù đày.
Ra tù, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời”
Hậu thế biết cái bản lĩnh tính kiên cường qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi
nước sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương.”, thì ta thấy cái kiếp
bèo bọt của thi nhân “dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh” bản lĩnh quật
cường, “Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng, giữ giọng, giữ
bản lĩnh nhân văn nhân bản thi sĩ, chứ đâu “quất bã chè thành thơ?”!
Chân dung 29 - Bùi
Giáng. Tôi không đắc ý với câu “Nghêu ngao giả cuồng điên”. Chữ “Giả”
không đạt lắm. Thực thì Bùi Giáng điên điên, điên tình, điên cảnh, điên thơ,
điên đời... Thường thì các thi sĩ thiên bẩm thiên tài đồng bóng thăng hoa mà
phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc điểm là bất thường vô thường, (Chân không tới
đất, cật không tới trời), lâng lâng ảo ảo, cuồng cuồng say say, nó vô định ma mị
lắm. Chính thế mới tạo nên cái “Bùi Giáng”, “Trường phái thơ Bùi Giáng”, không
khéo Nguyễn Khôi lại lầm như trường hợp Xuân Diệu nhận định nhầm Hàn Mặc Tử.
Chân dung 43 - Lê
Lựu. Đọc chân dung này thì thấy cái chân tướng đời thường, kẻ đường chợ chứ đâu
là chân dung một nhà văn Lê Lựu, một Giang Minh Sài (Thời xa vắng),
một Núi (Sóng ở đáy sông). Còn cái chuyện tình ái, vợ chồng, gia
đình hãy cho qua, hãy phác họa, ký họa, khắc họa những nét đặc biệt, đặc trưng
chân dung VĂN HỌC. Hãy hướng tới cái có, cái được, cái đạt, cái đặc biệt nổi
trội của nhà văn thì văn chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.
Chân dung 45 -
Chân dung Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…
Tiếc quá! Lại ghép
hai “Nhà” cùng nhau…Gây phản cảm. Tất nhiên ý tác giả ghép chân dung hai vợ
chồng, hai nhà tài năng liền nhau cho thân mật thắm thiết, nhưng gây cho người
ta nhìn nhầm thành hai đầu sáu tay…ngộ ngộ. Nói đến Lý Phương Liên phải nói đến
“Ca bình minh”, “Tâm sự với Thúy Kiều”. Người ta
không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà thơ quá nhạy cảm, thông minh
mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử với tuyên ngôn “Thơ là
thơ không phải địa vị người làm thơ” hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo đức
tư tưởng: “Màu đỏ của máu/màu vàng của da/mỗi chúng ta/là một lá cờ”.
Hay sâu xa bất hủ như: “Cháy rồi, cháy hết phần thơm/chân hương đứng lặng
nỗi buồn vô vi/rồi màu phẩm nhạt phai đi/dẫu chẳng còn vẫn đứng chân hương”.
Tâm tình, dúng nghĩa nhân lễ trí tín quá! Tài hoa bất hủ, bất tử quá quá! Đừng
quên những lời thơ gan ruột này là chân dung Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca
bình minh”, “Tâm sự Thúy Kiều” là tượng đài lồng lộng
thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên. Còn “Chàng Tư mã say thơ/mê mùi sen phố
cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/thơ bạn thơ” rạng rỡ”. Chỉ là bề nổi, chỉ là cái
bóng thoảng của hai nhà thơ nổi tiếng này thôi.
Chân dung 47 -
Dương Thu Hương. Tôi đã được đọc “Thiên đường mù”, “Đám
cưới không giá thú”, “Bên kia bờ ảo vọng”, tôi phục trí
óc của bà, tôi quý giọng văn sắc sảo biến ảo đa chiều góc cạnh của bà. Đọc số
47 Dương Thu Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và sợ sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm
góc ngách phù thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn buồn buồn vì những câu “Tức
khí mà tắt kinh/Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh lẻ vĩ nhân”…Đã tắt kinh,
thì hết trứng, hết trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù vẫy
gọi” vô vọng quá! “Chào tỉnh lẻ vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất
nhiên “Thiên đường mù” “Tỉnh lẻ vĩ nhân” là tác phẩm nhưng cũng
là con người xã hội, thế thời thời thế…Những câu chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại
ngôn ngoại). Nhưng tắt kinh tuy đúng, tuy lạ nằm bên, hiện lên trang giấy khó
đọc quá cứ tởm tởm mất vệ sinh…- Tôi lại lan man quá rồi! Trên các trang mạng
nhan nhản phất phới lời ca lời bình 99 chân dung rồi, Nguyễn Khôi đã được các
nhà uy danh phong “tuyệt vời”, “Thượng thừa ngôn ngữ”, “Thư ký thời đại”… “Xuất
khẩu thành chương”… “Nguyễn Khôi sáng ngời…”. 99 gương mặt đã được các nhà bình
bàn rất kỹ rất hồn nhiên, các khuôn dung đã lồ lộ quá rõ rồi thôi tôi hết đất
miễn bàn. Lẽ ra tôi định bàn tới các nhà thơ chính, phân cao thấp. Nhưng như
nói đã quá đủ trên các báo mạng rồi tôi chỉ xin thoáng qua mấy nhà thơ mà tôi
có quen biết.
Kính thưa nhà văn
Nguyễn Khôi - Văn Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có thể thời đầu, đoạn đầu
Văn Thùy tập diễn, cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa mê thuốc lú thành “dị
nhân” xịn đấy, ông gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng như bài thơ “Văn
Thùy dị nhân” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy Bùi
Giáng là lủi” Văn Thùy sao dám đấu với Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người đời
ngộ nhận thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét ngoại hình, có dòng thơ lục bát
nhuần nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu “khóc người một con”
trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi Giáng đâu có giống cái “bụi”
của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác bụi bặm rồi cơ mà. Thôi thì Văn
Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi” cũng là lẽ tự
nhiên thôi chứ “Khéo dán tem “thơ bụi” sao nổi.
Người thứ hai là
bạn tôi, là thầy thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân dung 63: “Thơ
“trong” ba lô ra trận/Bỏ “trót một thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/ Trả đời cho
Chí Phèo”. Chân dung này thật 100% nhưng nhạt loãng, tuyền toàng. Cụ thể
nghĩa đen, sự thực năm 1970 anh chàng tân binh Hoàng Xuân Hoa
yêu thơ say thơ quý phục Ca bình minh của Lý Phương Liên. Anh
chép tay cõng trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc chinh chiến ở chiến
trường Nam Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời yêu”
giọng điệu trăn trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau chiêm nghiệm
từng trải là người trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện cõi âm ra
đời” vừa hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng nhức cho độc
giả sau, trước cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh ra “Chí
Phèo đi dự Fet ti van”. Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn
chưa rõ cái thần thái uy quang của Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu
lầm, tưởng sai về nhà thơ khó tính đa tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời
cho Chí Phèo” oan quá, tầm thường quá! Ngộ quá!
Ông bạn thứ ba mà
tôi kiêng nể dẫu ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn tuổi, đó là Đặng Xuân
Xuyến, chân dung số 89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng những năm 1990 - 2000 xã
hội mở cửa, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, các
nhà văn nhà thơ thậm chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn thất thời đua nhau phấn
đấu trở thành thi sĩ văn sĩ đua in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi mắt”,
“Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học nhân
văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho ra
đời hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể lên tới hàng trăm đầu sách với nhiều
bút danh). Nổi bật gây dư luận nhất là hai tập sách, một là Giới tính
và giáo dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình
dục và giới tính. Anh tiếp thu thành tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở
trong nước, nhất là những cái ở ta đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người,
giúp đời, giải phóng mặc cảm, giải phóng thân thể tự do, hướng tới sống khỏe,
sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi).
Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến giải, được viết theo quan điểm
chắt lọc những tinh hoa của tiền nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp cận dễ
hơn, đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng của người Việt thế nhưng cũng bị nhà chức
trách thổi còi “đình bản” nhưng không thu hồi. Sách vẫn được truyền tay tìm
đọc, nghe đâu, vẫn được tái bản mấy lần. Đó là cái riêng, khác lạ của một đời
văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn có giọng văn dáng dấp đương thời
đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết một loạt truyện ngắn: Chuyện cu
Tố làng tôi, Chuyện của gã Khờ, Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu
thích, ngay chính lão thi bá Nguyễn Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã
Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi
cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ
chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng,
Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh
có cái giọng riêng đã đáng là một nhà thơ rồi.”. Vậy mà bác Khôi nhà ta đã
nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn sách và viết sách/ Vui gà trống nuôi con/
làm tình “cưỡng” không thích/ Thơ như thời trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá
thô, quá trơn tuột. “Buôn sách”, “gà trống nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không
thích” thì đâu phải chân dung, phải chăng chỉ là về đời thường chứ đâu là cái
hồn cốt, cái chân dung để đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ
Từ Trang. Nhà thơ này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ hay văn giỏi. Anh rất
coi thường thơ tôi. Anh thường bảo thơ tôi là thơ con cóc. Vâng. Tôi rất bực
mình và tự ái nhưng tiếp cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ anh rất hiện đại nhưng ý
tứ gợi mở ám ảnh như bài: Chiếc đồng hồ cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán….
Một loạt bài rất hay, không thiếu chất suy tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á.
Thơ anh và văn anh đăng rất nhiều trên báo trung ương và địa phương, gây nhiều
hiệu ứng trong xã hội. Cuốn Phía sau con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ
nhàng, chân thật, sống động, có chiều sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết
tiếng chúa biết tên”. Ấy thế mà Nguyễn Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn
lên từ chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ công/ Văn chân dung chân thật/ Thơ
ngọt khế sắt đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ ngọt khế sắt đồng, còn có cả
chua chát đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí thức, ấn tượng cổ kim... Bác
Khôi lại cẩn thận đóng vai cán bộ tổ chức, xét lý lịch mấy đời thi nhân, đã
khắc họa chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo của Vũ Từ Trung.
Người thứ 5 mà tôi
biết là Nguyễn Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương dương cầm/ Nghe
mưa trên mái cổ/ Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát phố.”. Ba
câu đầu ít nhiều có hồn vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ tư “Thơ
lang thang bát phố” thì e không đắt, không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người
nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ Nguyễn Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ
bần lâng vô vi thi vị. Với con người điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng
thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy chẳng bát phố đâu. Vả lại, ông chẳng có tác
phẩm nào là “bát phố”, không khéo người ta lại nhầm với ông Bảo Sinh thì nguy.
Đang viết thì
chuông điện thoại đổ gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên kia là giọng của ông
bạn thơ tuổi đã cao niên: - “Alo! Ông Hành có được tặng 99 nhà văn đương đại
của Nguyễn Khôi không? Có cái bìa 2 lạ lắm. Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem
hoa, không biết là ý gì nhỉ?”. Tôi vội mở điện thoại ra xem, quả lão thi
nhân vẫn phong độ chững chạc lắm. Áo véc tím hồng, khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười, tay phải đút gọn túi áo, tay trái vịn cành
đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời: - “Ồ không phải là cưỡi ngựa xem hoa mà
là vin hoa đút túi….”.
Định viết thêm
nhưng tôi thấy thế cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Thật lòng,
tôi cứ tiếc, cứ lẩn thẩn với những suy nghĩ trong đầu: Giá như thi bá Nguyễn
Khôi bình tâm tĩnh trí khoan dung hỉ sả nhân ái một chút, tĩnh tâm tận tình mà
viết 99 chân dung; giá như thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ, đọc ngấm, đọc thấu, đọc
trách nhiệm với những tác phẩm của các “chân dung” thì tác phẩm sống động hơn,
các chân dung ấy sẽ trường tồn hơn...
Vâng! Cảm phục nhà
thơ và cũng rất tiếc thay!
*
Khoan Tế, những ngày đầu tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Đa Tốn, xã Khoan Tế
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Điện thoại: 0166.467.78.26
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét