KHẬP
KHIỄNG HAY KHÔNG KHẬP KHIỄNG?
(Về bài viết Hai Bài Thơ Quê Hương – Hai Tâm Tình Khác Biệt của Châu Thạch)
Phạm Đức Nhì
Từ Một Bình Luận Trên Facebook
Mới đây nhà phê bình Châu Thạch có
bài bình thơ Hai Bài Thơ Quê Hương - Hai Tâm Tình Khác Biệt đăng trên FB và vài
trang web văn học. Hai bài thơ đó là Bài Học Đầu Cho Con của Đỗ Trung Quân và
Quê Hương của Nguyên Lạc. CT đã nương theo tứ thơ để cảm nhận và sau đó, bằng
văn tài sở trường của mình, diễn đạt một cách mạch lạc và bay bướm, tâm tình
của hai tác giả.
Lang Bạt, một bạn đọc Facebook đã
viết một bình luận khá dài dưới bài viết Về Cách Hành Xử Của Một Nhà Bình Thơ
của Nguyên Lạc trên FB, trong đó có câu: “Việc đem bài thơ Quê Hương (của
Nguyên Lạc) để so sánh với (bài thơ của) Đỗ Trung Quân thật là khập khiễng.”
(Mấy chữ trong ngoặc đơn là của PĐN) (1). Ý chị muốn nói giá trị nghệ thuật của
hai bài thơ cách biệt quá xa, đặt cạnh nhau để so sánh rất khập khiễng, không
cân xứng.
Bình luận của chị Lang Bạt đúng hay
sai? Nói khác đi, đặt hai bài thơ Quê Hương của Nguyên Lạc và Đỗ Trung Quân
cạnh nhau để so sánh có khập khiễng không? Tôi không phải là người “ba phải”
nhưng đọc bình luận của chị không hiểu sao lại nghĩ ra hai câu trả lời trái
ngược nhau. Dĩ nhiên, có lý do để tôi nẩy ra ý nghĩ trái khoáy như thế. Xin
viết ra đây như một câu chuyện văn chương để bạn đọc thưởng thức, và nếu có nhã
hứng, góp ý hay bình luận.
Câu Trả Lời Dựa Vào Bài Viết Của
Châu Thạch
Bình thơ là giúp người đọc trả lời 3
câu hỏi. What? (Viết gì?), How? (Viết thế nào?), và When? (Viết trong tâm cảnh
nào?). CT không những đã trả lời mà còn tán rộng ra, và đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ đề ra cho bài viết của mình qua tiêu đề Hai Bài Thơ Quê Hương – Hai
Tâm Tình Khác Biệt.
Tuy nhiên, đọc bài viết thật kỹ tôi
nhận thấy Châu Thạch không nói gì đến hai câu hỏi sau mà chỉ đặt trọng tâm câu
trả lời của mình – là bài viết - ở câu hỏi thứ nhất. Khi lờ đi hai đặc tính
quan trọng nhất để phân biệt thơ với văn, anh tuy gọi chúng là “Hai Bài
Thơ” nhưng thật ra, đã đối xử với chúng như là hai đọan văn, hai công cụ chuyển
tải thông tin không hơn không kém.
Chỉ nói đến chức năng truyền thông
mà lờ hẳn đi chức năng nghệ thuật – tính thơ của bài thơ và tài thơ của thi sĩ
- thì một tuyệt tác thi ca có khác gì một bài thơ của một người mới tập tành
chọn chữ, so vần.
Chính vì thế, trong bài viết của
Châu Thạch, “hai bài thơ” đặt cạnh nhau rất cân bằng và bình thường, chẳng có
gì là khập khiễng hết.
Câu Trả Lời Dựa Vào Nghệ Thuật Thơ
Của Hai Bài Thơ
Đây không phải là những bài bình thơ
“trường lớp” theo đúng trình tự một cách bài bản. Tôi sẽ chỉ đi thẳng vào những
chỗ hay, chỗ dở rồi tổng hợp để bạn đọc hình dung được giá trị nghệ thuật của
bài thơ một cách tương đối. Riêng phần tứ thơ, anh Châu Thạch đã phân tích và
bàn luận quá kỹ nên tôi sẽ không nói tới nữa, trừ trường hợp thật cần thiết.
Bài Học Đầu Cho Con Của Đỗ TRung
Quân
1/ Đoạn Thơ
Quá Xạo
Nói đến bài thơ nổl tiếng này của Đỗ
Trung Quân người đọc thơ sành điệu chắc khó có thể quên một đoạn thơ “xạo hết
ga” của nhà thơ gốc Thanh Niên Xung Phong:
Quê hương là gì hả mẹ?
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hả mẹ?
Ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Với cái tựa Bài Học Đầu Cho Con,
đoạn thơ là hai câu hỏi của đứa bé mới học lớp vỡ lòng hỏi mẹ sau khi được cô
giáo dạy bài học đầu tiên. ĐTQ đã vô ý đặt 2 câu hỏi quá nặng ký vào miệng đứa
bé mới 4, 5 tuổi. Độ xạo của đoạn thơ rất cao, nhưng rất may, theo tôi, không
ăn sâu, bắt rễ vào tứ thơ nên chỉ là lỗi kỹ thuật, có thể bỏ đi hoặc sửa chữa
khá dễ dàng.
2/ Thể Thơ
Và Hội Chứng Nhàm Chán Vần
ĐTQ cho biết (2) BHĐCC có 2 lần được
chính thức in ấn: Nguyên bản được chính thi sĩ phổ biến năm 1991 trong tập Cỏ
Hoa Cần Gặp gồm 9 đoạn và phiên bản đăng trên báo Khăn Quàng đỏ năm 1986 được
chị Việt Nga biên tập (bỏ 3 đoạn) còn 6 đoạn.Theo tôi, còn một phiên bản nữa;
đó là lời của ca khúc Quê Hương do Giáp Văn Thạch phổ nhạc từ phiên bản năm
1986 (bỏ thêm 2 đoạn) còn 4 đoạn.
Bài thơ viết theo thể thơ 6 chữ,
trường thiên, nhiều đoạn, mỗi đoạn 4 câu.
a/ Nguyên bản: Gồm 9 đoạn, đọc đến mấy đoạn cuối đã chớm hội chứng nhàm chán
vần.
b/ Phiên bản năm 1986: Chưa có HCNCV
c/ Lời bản nhạc Quê Hương của GVT: Không có HCNCV.
3/ Ngôn ngữ
thơ: tượng hình, đẹp một cách bình dị, nhiều đoạn như là những bức tranh thơ.
4/ Cái Siêu
Của Bài Thơ
Chắc bạn đọc đã nghe nói “thi trung
hữu họa” - có nghĩa là trong thơ có họa. Những câu thơ loại này thường được
đánh giá cao vì có thể thấm nhập vào tâm hồn người đọc một cách tương đối dễ
dàng. Người đọc rất ít phải dùng đến lý trí để “bắt” tứ thơ.
Thí dụ:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
(Áo Lụa Hà Đông, Nguyên Sa)
Hình ảnh chàng trai sánh bước bên
người yêu của mình mặc áo lụa Hà Đông giữa nắng Saì Gòn làm 2 câu thơ rất dễ
hiểu, có thể đi vào lòng người đọc dễ dàng. Đó là nhờ tác dụng của “thi trung
hữu họa”.
Một thí dụ khác:
Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đấy xạm đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rũ ướt mưa sương
(Nhà Tôi, Yên Thao)
Nhờ “thi trung hữu họa”, tác giả
không cần dài dòng giải thích mà người đọc vẫn thấy – qua 4 câu thơ -khung cảnh
chính làm nền cho bài thơ: Ngôi làng của người lính bên kia sông, đã bị quân
địch chiếm đóng “xạm đen màu tiết đọng, tre cau buồn tóc rũ ướt mưa sương”,
hiện ra rõ mồn một.
Thi sĩ viết được những câu thơ “thi
trung hữu họa” như trên đã được coi là cao tay. Nhưng có những câu thơ còn cao
tay hơn nữa, cao đến mức siêu đẳng. Chúng ta thử đọc hai câu dưới đây:
Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc
(Đằng Vương Các Tự, Vương Bột) (3)
Dịch nghĩa:
Ráng chiều rơi xuống cùng cánh cò
đơn chiếc đều bay
Làn nước sông thu với bầu trời kéo
dài một sắc
(Trần Trọng San)
Ở đây không phải chỉ trong thơ có
họa mà ngôn ngữ thơ đã hoàn toàn tan biến để hóa thân thành bức tranh tuyệt
đẹp. Câu thơ “siêu” như thế này sẽ tự động thấm vào hồn người đọc mà không cần
đến một mảy may sự “gạn đục khơi trong” của lý trí.
Trong kho tàng thi ca của Việt Nam
những bài thơ đạt được mức “siêu” như thế cực hiếm. Tôi tạm thời chỉ có thể đề
cử bài Ông Đồ của Vũ Đình Liên. Bài thơ 6 đoạn thì có 5 đoạn đạt mức siêu tuyệt
“thi hóa thân thành họa” (trừ đoạn cuối) (4)
Bài Học Đầu Cho Con của ĐTQ cũng có
mấy đoạn siêu tuyệt như thế. Khi phổ nhạc GVT đã bỏ đoạn đầu và thay cái tựa.
Việc làm rất tinh khôn này đã chữa được chứng bệnh xạo của bài thơ. Sau đó ông
lại còn mạnh tay cắt bỏ 2 đoạn khác, thay 2 câu cuối đoạn 4 bằng 2 câu đầu đoạn
5 (5) để ca khúc Quê Hương của ông trở thành một bộ tranh thơ về quê hương
tuyệt đẹp. Với bộ tranh thơ đó ông đã giúp ĐTQ tâm tình với khán thính giả bằng
Tiếng Người Chân Thật (6).
Tuy chỉ có hai câu nhưng vì là tranh
thơ nên “Lạc Hà Cô Vụ” đã được người Trung Hoa xem như một viên ngọc quý giá
trong kho tàng văn học của nước họ. Để có được viên ngọc quý đó người Trung Hoa
đã phải “đãi cát tìm vàng”, phải sục sạo cả bài Đằng Vương Các Tự hàng trăm câu
mới tuyển được hai câu nổi tiếng đó. Trong khi Quê Hương của ĐTQ và GVT là cả
một bộ ngọc 6 viên nằm lồ lộ trước mắt người thưởng ngoạn một cách nghệ thuật.
Nói như thế để thấy tài thơ trác tuyệt của ĐTQ và công lao to lớn của GVT. Dĩ
nhiên, có cả một chút tự hào về Thi Ca của nước nhà khi so sánh với Thi Ca Trung
Hoa.
5/ Cảm Xúc
Có người đặt câu hỏi “Phải chăng với
6 bức tranh thơ, ĐTQ đã bước tới cảnh giới của một thiền sư đạt đạo – cho cái
tiểu ngã của mình hòa nhập với cái đại ngã của vũ trụ?” Tôi không nghĩ như vậy.
Chúng ta thử đọc bài thơ Yên Hà Xứ
của thiền sư Viên Minh:
YÊN HÀ XỨ
Đáo tận yên
hà xứ
Hồi đầu biệt
nhất phương
Mục tiền sơn
thủy hạo
Nguyệt hiện
thảo đầu sương
Dịch thơ:
Thong dong
tận cõi mù sa
Quay đầu
nhìn lại yên hà một phương
Nước non
hùng vĩ thân thương
Lung linh
trăng hiện giọt sương đầu cành.
Ở đây thiền
sư mới đúng là đã “vất bỏ mọi tư ý tư dục để cái ngã của mình hòa nhập với vũ
trụ - Thiên Địa Nhân hợp nhất. Đây có thể coi như một chứng đạo ca, một bài thơ
thiền của người đạt đạo.
ĐTQ đặt trọn tâm tình của mình vào
một không gian nhỏ bé hơn: khung trời quê hương. Tâm tình ấy lớn quá, sâu đậm
quá nên đã lấn át và loại bỏ tất cả những “ý, dục” khác để có thể “độc
quyền”hóa thân vào những bức tranh quê tuyệt đẹp. Tuy nhiên, ĐTQ vẫn khác vị
thiền sư một chút; tâm cảnh của thi sĩ vẫn có tư ý, tư dục; đó là tấm tình tha
thiết của anh đối với quê hương, đất nước. Chút khác biệt ấy, tùy căn cơ, có
thể chỉ một tầm tay với, nhưng cũng có thể mù xa vạn dặm.
6/ Đoạn
Cuối Quá Dở
Riêng đoạn cuối, tôi xin bỏ qua những
bàn cãi có tính chính trị, để chỉ nói đến hiệu ứng văn chương.
Ngay khi câu thơ:
Quê hương mỗi người chỉ một
xuất hiện, lý trí đã quay lại để làm
nhiệm vụ của nó (xem có đúng là “mỗi người chỉ một” không), và cuộc đối thoại
bằng Tiếng Người Chân Thật đã chấm dứt. Tôi cho đoạn cuối dở là dở ở chỗ đó.
Là nguời thích bóng đá, tôi tưởng
tượng ĐTQ - với đôi mắt tinh đời, chuyên nghiệp của mình - đã đi khắp nơi chiêu
mộ được một dàn cầu thủ sáng giá. Nhưng phải chờ đến Giáp Văn Thạch - người có
đôi mắt sắc sảo hơn – đã sàng lọc, tuyển lựa, mạnh dạn loại bỏ một số cầu thủ
rất giỏi nhưng không hợp với đấu pháp mới của ông, Quê Hương (tuy vẫn còn một
chút khiếm khuyết) đã trở thành một đội tuyển lừng danh, có thể so tài với bất
cứ đội tuyển nào trên thế giới.
Quê Hương của Nguyên Lạc
Bài thơ Quê Hương của Nguyên Lạc có
một số đặc điểm sau:
1/ Có một
số câu thơ riêng, tâm trạng khác biệt, mới lạ, làm vẻ đẹp của khung trời QH
thêm sống động phong phú, tình yêu quê hương thêm chút cay đắng, oán trách, gây
thích thú cho độc giả.
Thí dụ:
Quê
hương làm sao không nhớ?
Dòng
sông tuổi trẻ mênh mang
Bần de. phóng
đùng. nước mát
Lặn tìm. chân bắt. la vang
Bờ sông. chị khàn tiếng gọi
Vết roi cha đánh. tím bầm!
Và:
Quê hương ta
ơi... đừng nhớ!
Muộn phiền, cay đắng mà thôi!
Cố quên, sao lòng vẫn nhớ!
Quê
hương nhớ lắm... người ơi!
2/ Sinh sau
đẻ muộn:
Quê Hương của Nguyên Lạc được sáng
tác sau BHĐCC của ĐTQ trên ba chục năm. Thường thì bài thơ ra đời sau hay bị
xếp ở hạng dưới nếu có điểm gì đó giống bài thơ ra đời trước. Lý do: Trong thơ
sự sáng tạo (ra cái mới) được khuyến khích tối đa.
Trong một đoạn trao đổi với Châu
Thạch, Nguyên Lạc đã công nhận là viết bài thơ Quê Hương để trả lời ĐTQ, bày tỏ
một vài điểm khác biệt trong tâm trạng của mình. Anh đã đạt được mục đích đó,
nhưng đổi lại, ngay trong việc chọn đề tài, thể thơ, âm điệu, nhịp điệu, hình
ảnh, bài thơ Quê Hương của anh như một cô gái đẹp lại chấp nhận cái kiếp lấy
chồng chung, chấp nhận thân phận lẽ mọn vì là “kẻ đến sau”. Chỉ riêng điểm đó
đã giảm giá trị của cô gái, và giải mã ẩn dụ, giảm giá trị của bài thơ khá
nhiều.
3/ Bài thơ
của NL dài đến 76 câu, thể thơ 6 chữ, âm điệu và nhịp ngắt đều đều, nên mặc dù
có thay đổi cách gieo vần – lúc liên tiếp, lúc gián cách, có cả lúc lạc vận -
hội chứng nhàm chán vần của bài thơ vẫn khá nặng.
4/ Bài thơ
nhất khí liền mạch, có sóng sau dồn sóng trước theo dòng chảy của tứ thơ để cảm
xúc tầng 3 - cảm xúc cao cấp nhất – xuất hiện, nhưng do ý tưởng hơi bề
bộn, thế trận chữ nghĩa xộc xệch nên dòng cảm xúc đó không đủ lớn mạnh để hình
thành hồn thơ.
Quê Hương của ĐTQ và GVT là một bản
nhạc có lời thơ siêu tuyệt - một bộ 6 bức tranh thơ đẹp một cách bình dị. Người
đọc lặng ngắm 6 bức tranh thơ ấy sẽ có cảm giác thật mới lạ: Được thấy tâm tình
yêu quê hương say đắm của tác giả tự động thấm nhập vào hồn mình, hoàn toàn
tránh khỏi sự can thiệp của lý trí.
ĐTQ, bằng tài thơ của anh, cộng thêm
sự giúp sức của GVT, đã để lại cho đời một tuyệt phẩm kết hợp cả Thơ Nhạc Họa.
Tuyệt phẩm ấy đã cho phép tác giả và độc giả được giao tiếp với nhau bằng tiếng
Người Chân Thật mà vì sức cuốn hút của cuộc sống, đã quên mất từ lâu.
Quê Hương của Nguyên Lạc cũng là một
bài thơ hay. Ngôn ngữ bình dị, đậm mùi Nam Bộ, cảm xúc dạt dào, tâm trạng phức
tạp, so với BHĐCC của ĐTQ lúc chưa được phổ nhạc cũng đã nhiều phần bề bộn chữ
nghĩa hơn. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, NL cũng đi khắp nơi chiêu mộ cầu thủ
nhưng anh tham quá. Trong số những cầu thủ anh đưa về có nhiều người giỏi,
nhưng cũng có một số chỉ ở mức độ khá. Hơn nữa, trong số những cầu thủ giỏi lại
có một số đá trùng vai (vị trí) nên việc gạt bỏ ít nhất 75% cầu thủ để có một
đội tuyển hùng mạnh lại vượt quá khả năng của Nguyên Lạc.
Bởi thế Quê Hương của Nguyên Lạc,
theo tôi, rất cần một Giáp Văn Thạch, nhưng nhạc sĩ tài hoa đã không còn nữa.
Trong số nhạc sĩ đương đại của Việt Nam có thể cũng có người có khả năng “chặt
đông chém tây” để bài thơ Quê Hương của Nguyên Lạc thon gọn tới cái vóc dáng
tối ưu của nó. Nhưng để người tài hoa gặp, rồi phải lòng với bài thơ, còn cần
một chút duyên. Mà ngay cả khi đã có chút duyên ấy, thành phẩm đem so với với
Quê Hương của ĐTQ và GVT về giá trị nghệ thuật cũng còn một khoảng cách rất xa.
Tóm lại, bình thơ kiểu Châu Thạch,
thơ chỉ là công cụ chuyển tải thông tin, chỉ khác nhau ở Ý, Tứ, còn
thì bài nào cũng như bài nấy, đặt cạnh nhau chẳng có gì là khập khiễng
hết.
Còn nếu xét về Nghệ Thuật Thơ, câu
bình luận “khập khiễng” của Lang Bạt trong trường hợp này đúng sai thế nào, bạn
đọc chắc đã tự tìm được câu trả lời.
Kết Luận
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng
Quốc, trong bài Nghĩ Về Viết Lách: Phê Bình Cần Có Chủ Kiến đã viết:
Đánh giá cuốn sách này hay ư?
— Chuyện nhỏ!
Đánh giá tác giả kia viết hay ư?
— Cũng chỉ là chuyện nhỏ!
Cái lớn nằm ở đằng sau cái gọi là “hay” ấy.
Và đằng sau cái gọi là “hay” ấy chính là chủ kiến.
XXXXXXXXXXXX
Nhà phê bình nào cũng cần có chủ kiến. Không có chủ kiến, tưởng là khách quan, nhà phê bình chỉ làm nô lệ cho truyền thống và theo đuôi quần chúng. Hắn có thể diễn đạt hay; nhưng cái hay ấy chỉ nhằm củng cố những điều mọi người đã biết. Quanh quẩn trong sân chơi của những cái-đã-biết, hắn rất dễ nhận được những tràng pháo tay, nhưng đó là những tràng pháo tay tống tiễn hắn vào cõi quên lãng.
Nhà phê bình phải có chủ kiến. Chính tính sáng tạo và độ quyết liệt trong chủ kiến sẽ là một trong những tiêu chí chủ yếu để đo lường tầm vóc một nhà phê bình.
Châu Thạch là người rất nặng lòng
với thi ca và bình tán thơ rất có duyên, nhưng trong các bài bình thơ của anh,
theo tôi, còn thiếu một quan niệm thẩm mỹ, một số nguyên tắc có tính lý thuyết
mà NHQ gọi là chủ kiến, để làm chỗ dựa cho những lời bình phẩm.
Nếu Châu Thạch bổ túc đuợc điều
thiếu sót đó thì tôi tin anh sẽ tiến rất xa trên đường đi tìm cái đẹp của thơ –
con đường đã lấy của anh rất nhiều thời gian, công sức, nhưng bù lại, đã đem
lại cho anh nhiều niềm vui và hứng thú.
Phạm Đức Nhì
CHÚ THÍCH:
2/ Nhà Thơ Đỗ Trung Quân Và Ca Khúc
Quê Hương, Mặc Lâm
4/ Ông Đồ: Những Bức Tranh Thơ
5/ GVT đã bỏ 2 câu của đoạn 4 (phiên
bản 1986):
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
rồi lấy 2 câu đầu của đoạn 5, đổi
chữ “thềm” thành “hè” để câu thơ khỏi lạc vận:
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài hè
Hai câu này mới chính là “thi hóa
thân thành họa”; còn 2 câu trước - diễn tả mùi hương – nên không thể “nhập” và
tan biến vào tranh được. GVT rất tinh và rất tài trong sửa đổi này.
6/ Khi thơ biến thành họa người đọc
có thể tiếp nhận nội dung trực tiếp (như xem một bức tranh) mà không cần đến lý
trí. Vắng mặt lý trí, “cái tôi văn hóa” sẽ rút lui để nhường chỗ cho “cái tôi
đích thực” – tác giả và độc giả có cơ hội giao tiếp với nhau bằng Tiếng Người
Chân Thật.
PHỤ LỤC:
1/ Bài Học Đầu Cho Con – nguyên bản
(1991)
Quê
hương là gì hả mẹ
Mà
cô giáo dạy phải yêu?
Quê
hương là gì hả mẹ
Ai
đi xa cũng nhớ nhiều?
Quê
hương là chùm khế ngọt
Cho
con trèo hái mỗi ngày
Quê
hương là đường đi học
Con
về rợp bướm vàng bay
Quê
hương là con diều biếc
Tuổi
thơ con thả trên đồng
Quê
hương là con đò nhỏ
Êm
đềm khua nước ven sông
Quê
hương là cầu tre nhỏ
Mẹ
về nón lá nghiêng che
Là
hương hoa đồng cỏ nội
Bay
trong giấc ngủ đêm hè
Quê
hương là đêm trăng tỏ
Hoa
cau rụng trắng ngoài thềm
Tiếng
ếch râm ran bờ ruộng
Con
nằm nghe giữa mưa đêm
Quê
hương là bàn tay mẹ
Dịu
dàng hái lá mồng tơi
Bát
canh ngọt ngào tỏa khói
Sau
chiều tan học mưa rơi
Quê
hương là vàng hoa bí
Là
hồng tím giậu mồng tơi
Là
đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu
hoa sen trắng tinh khôi
Quê
hương mỗi người đều có
Vừa
khi mở mắt chào đời
Quê
hương là dòng sữa mẹ
Thơm
thơm giọt xuống bên nôi
Quê
hương mỗi người chỉ một
Như
là chỉ một mẹ thôi
Quê
hương nếu ai không nhớ
Sẽ
không lớn nổi thành người.
2/ Bài Học Đầu Cho Con – phiên bản
1986
Quê
hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ...
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè
Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ...
3/ Lời của ca khúc Quê Hương.
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài hè
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ
không lớn nổi thành người
QUÊ
HƯƠNG
Ôi lịch sử những dòng đời cay nghiệt,
Những tự hào hoá giải với oan khiên.(Trần Kiêm Đoàn)
Quê
hương có gì để nhớ
Mà
sao nước mắt lưng tròng?
1.
Quê
hương. chiếc đò nho nhỏ
Qua
sông. kham khổ từng ngày
Thân
me vai gầy. gánh khổ
Thương con. chịu nổi đắng cay
Quê
hương còn đầy thương nhớ
Ngoại nhai tóm tém trầu cay
Mẹ mày. thằng cháu mất dạy
Rong
chơi lêu lỏng suốt ngày
Quê
hương làm sao không nhớ?
Cầu tre lắc lẻo sáng mai
Đường vui. trống trường réo gọi
Cây
cao. chim hót từng bầy
Chia
nhau từng viên đạn nhỏ
Bịt mắt. kiếm tìm. Ai đây?
Chia
nhau nỗi lo thầy gọi
Nhói
đau. thước khẽ bàn tay
Chia
nhau trái me keo ngọt (+)
Chia
nhau từng tiếng cười đầy
Quê
hương làm sao không nhớ?
Dòng
sông tuổi trẻ mênh mang
Bần de. phóng đùng. nước mát
Lặn tìm. chân bắt. la vang
Bờ sông. chị khàn tiếng gọi
Vết roi cha đánh. tím bầm!
2.
Quê
hương đỏ màu phượng vĩ
Hè
sang. ve sầu khóc vang!
Tạ từ. lời ca ly biệt
Buồn trao lưu bút. lệ tràn!
Biết rồi mùa sau gặp lại?
Hay
rồi đôi ngả ly tan!
Quê
hương. buồn vui gác trọ
Thả hồn. giọng Khánh Ly khàn
Chia
nhau. chút đầu thuốc vụn
Khói
bay. theo khúc tình tan
3.
Bao
năm đời này vẫn nhớ
Xuân
nao. thay đổi phận người!
Bể dâu. biệt ly. mong đợi!
Khổ đau thay thế nụ cười!
”
Bàn tay. làm nên tất cả
Sức người. sỏi đá thành cơm ”
Trăm
năm. lời này vẫn nhớ!
Bao
năm. thắt cổ con người!
Khô
cằn. ” thằng Trời. Đảng thế ”
Giờ làm mưa gió được chưa?
”
Trăm năm. trồng con người mới ”
Mười năm. đủ dối lòng người!
Bao
năm chém tre đẵn gỗ
Bạn bè. chết không nắm mồ!
Mẹ già vượt đồi núi khổ
Thăm
con. lệ đổ đôi dòng!
Con
ơi. vợ con Kiều đó
Bán
thân. lo giúp cho chồng!
Chữ Trinh. thôi đành phụ bạc!
Đoạn trường. con biết hay không?!
4.
Bao
năm đời này vẫn nhớ
Đêm
thâu. xuôi mái theo dòng
Người đi. không lời từ biệt
Buồn ơi. tím biếc dòng sông!
Quê
hương ta ơi. thôi nhé!
Buồn ơi. nước mắt lưng tròng!
Rặng cây quê hương mờ bóng
Có
còn gặp lại được không?
5.
Quê
hương hoài mong thương nhớ
Cô
thân. lưu lạc phuơng người
Chiều nay. nhớ dòng sông ấy
Lục bình hoa tím hoài trôi!
Quê
hương ta ơi …đừng nhớ!
Muộn phiền. cay đắng mà thôi!
Cố quên. sao lòng vẫn nhớ!
Quê
hương nhớ lắm… người ơi!
Quê
hương còn gì để nhớ?
Buồn ơi. nước mắt lưng tròng!
Quê
hương sẽ còn để nhớ?
Quê
hương đáng nhớ không người?!
Nguyên Lạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét