Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013

Chùm thơ A. Akhmatova- bản dịch Tạ Phương



Chùm thơ A. Akhmatova- bản dịch Tạ Phương

*  *  *
Я и плакала и каялась,
Хоть бы с неба грянул гром!
Сердце темное измаялось
В нежилом дому твоем.
Боль я знаю нестерпимую,
Стыд обратного пути…
Страшно, страшно к нелюбимому,
Страшно к тихому войти.

 *  *  *
Em đã khóc và hối hận,
Mong trời chớp nổi sấm ran!

Con tim tối tăm nhói buốt
Trong căn nhà anh bỏ hoang.

Em biết nỗi đau chẳng tắt,
Trên đường trở lại bẽ bàng…

Chao ôi quả là khủng khiếp
Đến với người mình không yêu

Ôi thật kinh hoàng làm sao
Bước vào một nơi tĩnh lặng.

А склонюсь к нему нарядная,
Ожерельями звеня,
Только спросит: "Ненаглядная!
Где молилась за меня?"

1911

Đỏm đang, bên người, em cúi
Chuỗi ngọc trên cổ ngân reo,

“Em yêu - người ấy chỉ hỏi -
Cầu nguyện cho tôi nơi nào?”

1911

*  *  *

И мальчик, что играет на волынке,
И девочка, что свой плетет венок,
И две в лесу скрестившихся тропинки,
И в дальнем поле дальний огонек, -

Я вижу все. Я все запоминаю,
Любовно-кротко в сердце берегу
Лишь одного я никогда не знаю
И даже вспомнить больше не могу.

Я не прошу ни мудрости, ни силы.
О, только дайте греться у огня!
Мне холодно… Крылатый иль бескрылый,
Веселый бог не посетит меня.

1911

*  *  *

Và cậu bé thổi kèn đồng

Và cô bé kết hoa trên tóc

Và chỗ giao nhau đường rừng
Và ngọn lửa đồng xa heo hút…

Em thấy cả. Và em nhớ hết
Thoáng yêu còn đọng trong tim.
Chỉ một điều không bao giờ em biết
Thậm chí em không thể nhớ thêm.

Em chẳng cầu dẻo dai, sáng suốt,
Nhưng cần ngọn lửa sưởi đêm đông!
Em lạnh lắm… Thần Ái Tình chẳng ghé
Thăm em, dù mang cánh hay không.

1911


*  *  *
 
Ты письмо мое, милый, не комкай.
До конца его, друг, прочти.
Надоело мне быть незнакомкой,
Быть чужой на твоем пути.
 
Не гляди так, не хмурься гневно,
Я любимая, я твоя.
Не пастушка, не королевна
И уже не монашенка я -
 
В этом сером, будничном платье,
На стоптанных каблуках...
Но, как прежде, жгуче объятье,
Тот же страх в огромных глазах.
 
Ты письмо мое, милый, не комкай,
Не плачь о заветной лжи
Ты его в твоей бедной котомке
На самое дно положи.
 
1912

*  *  *

Đừng vò nát thư em, anh yêu dấu,
Đọc hết đi, anh sẽ hiểu ngọn ngành.
Em đã chán mãi là người xa lạ,
Là người dưng trên bước đường anh.

Đừng nhìn vậy, đừng chau mày, giận dữ
Em là của anh, vẫn được anh yêu.
Không phải công nương hay ả chăn  cừu
Em cũng không còn là người tu nữ –

Trong bộ đồ màu xám bận ngày thư­ờng,
Em hay đi những đôi giày vẹt gót...
Nhưng vòng tay em vẫn nồng nàn như trước,
Trong cặp mắt mở to, vẫn đó, nỗi kinh hoàng...

Đừng vò nát thư em, anh yêu dấu,
Đừng khóc vì lời thề thốt dối gian,
Anh hãy cất thư em vào tận đáy
Chiếc túi nghèo anh vẫn thường mang.

1912


*  *  *
 
Я научилась просто, мудро жить,
Смотреть на небо и молиться Богу,
И долго перед вечером бродить,
Чтоб утомить ненужную тревогу.
 
Когда шуршат в овраге лопухи
И никнет гроздь рябины желто-красной,
Слагаю я веселые стихи
О жизни тленной, тленной и прекрасной.
 
Я возвращаюсь. Лижет мне ладонь
Пушистый кот, мурлыкает умильней,
И яркий загорается огонь
На башенке озерной лесопильни.
 
Лишь изредка прорезывает тишь
Крик аиста, слетевшего на крышу.
- И если в дверь мою ты постучишь,
Мне кажется, я даже не услышу.
 
1912

*  *  *

Tôi đã học sao sống được khôn hơn,
Ngước nhìn bầu trời và cầu nguyện Chúa,
Trước tối tôi thường đi dạo hồi lâu
Cho mệt rã những ưu tư vô bổ.

Khi lá ngưu bàng xào xạc hẻm  sâu
Tán thanh lương trà rũ màu vàng đỏ,
Tôi viết nhưng vần thơ vui vẻ
Về cuộc sống lét leo, tàn úa, rỡ ràng.

Tôi trở về. Liếm nhẹ tay tôi
Con mèo nhỏ lông xù rừ rừ âu yếm,
Và ngọn lửa hồng rực rỡ reo vui
Trong tháp xưởng cưa bên hồ nước lớn.

Thảng hoặc tiếng kêu của những con cò
Đậu xuống mái phá tan tĩnh lặng,
Và nếu anh tới cửa nhà tôi, gõ mạnh,
Tôi e rằng mình không nghe thấy đâu.   

1912


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét