CÁNH
ĐỒNG - MỘT BÀI THƠ LẠ
Phạm Đức Nhì
( Tác giả gửi cho chủ trang)
Phạm Đức Nhì
( Tác giả gửi cho chủ trang)
Cánh Đồng
Sau
ba năm chung thủy
Với
người chồng đi xa
Chị
đã thất tiết một cách lạ kỳ
Với
người đàn ông xấu xí
Già
hơn chị rất nhiều
Trong
một buổi chiều bão tố
Khi
chúng tôi đến đó
Người
đàn ông đã đi rồi
Chỉ
còn lại trên đồng lúa
Vết
xước của dĩa bay mà thôi
(Nguyễn
Đức Tùng)
Cánh
Đồng là bài thơ lạ; nói thế mà không ngại, vì nó là đứa con tinh thần của
Nguyễn Đức Tùng, một người rất chú trọng đến lý thuyết thơ và đang có nỗ lực
làm mới thơ. Nhưng muốn để phát biểu ấy có sức thuyết phục phải “nói có sách,
mach có chứng”, phải đưa bài thơ ra ngắm nghía, xem xét.
Vóc Dáng
Trước
hết, đây là bài thơ có vóc dáng mới: Tác giả thong dong dạo chơi trong khu vườn
thi ca vì đã hoàn toàn thoát khỏi những trói buộc của thể thơ. Bài thơ thoát
hẳn truyền thống, vượt qua Thơ Mới, kể cả Thơ Mới biến thể. Số chữ trong câu,
sô câu trong bài không bị một quy luật nào chi phối. Viết đến đây tôi chợt nhớ
đến bài thơ Mắt Bồ Câu của Nguyễn Khắc Phước (1); cũng cái vóc dáng mới mẻ thu
hút sự chú ý của tôi ngay lần đọc đầu tiên. Và khi xét kỹ thì cũng vượt qua cả
Thơ Mới biến thể để đi vào “vùng trời tự do của thi ca”. Có điều theo tôi nhận
xét thì Nguyễn Khắc Phước đưa Mắt Bồ Câu đến được vùng trời đó là do tình cờ
(và một chút may mắn). Còn Nguyễn Đức Tùng thì ngoài Cánh Đồng còn một số bài
thơ khác nữa cũng có vóc dáng tương tự (2) - nghĩa là nỗ lực làm mới thơ của
anh đã có kết quả. Anh đã thấy đích và biết đường đi đến đích.
Vần
Năm
câu của đoạn đầu không vần nhưng khi đọc lên, âm điệu nối kết các câu thơ với
nhau, tuy không trơn tuột ngọt ngào, vẫn không bị khô cứng. Năm câu của đoạn
sau thì hai câu 6 và 7 vần với nhau (tố, đó) rất tự nhiên. Câu 8 và 10 có âm
hưởng của vần xa (rồi, thôi) nhưng hơi gượng. Nói chung, vị ngọt trong bài thơ
10 câu, 59 chữ như thế cũng tạm đủ, vần điệu của bài thơ tương đối thành công;
dòng chảy của tứ thơ không mạnh, nhưng nhờ bài thơ ngắn, vẫn đưa người đọc tới
bến.
Ngôn Ngữ Thơ
Nhiều
người cho rằng “Ngôn ngữ thơ lung linh, trừu tượng, lại thường có ẩn dụ nên đa
nghĩa, vì thế độc giả có quyền đến với tứ thơ theo cách hiểu, cảm nhận của
riêng mình”. Nguyễn Đức Tùng không nói ra nhưng qua việc sử dụng ngôn ngữ và
cách sắp xếp thế trận của Cánh Đồng (và mấy bài thơ khác tôi đọc được) (2), theo
tôi, hình như anh không đồng ý với suy nghĩ đó. Việc anh tránh né những tĩnh
từ, trạng từ lung linh, đa nghĩa, hoặc những câu dẫn người đọc đến ngã ba
đường, là muốn người đọc vịn vào câu thơ để có thể dễ dàng đi đến đúng “bến
bãi”. Anh muốn truyền đến họ tâm trạng, suy nghĩ của mình trước một cảnh đời
(còn đồng cảm hay không lại là chuyện khác) chứ không muốn cho họ mượn bài thơ
làm bệ phóng để thả hồn về những phương trời khác tít tắp mù khơi. Vì thế có
thể nói từ câu đầu cho đến lúc vào “bến bãi”, tứ thơ của Cánh Đồng là con đường
dễ đi. Nếu bạn đọc, vì lý do nào đó, đi lạc, không phải lỗi của tác giả.
Thế Trận - Mấy Câu Kết
Có
mấy bài toán hình học lớp Đệ Nhất B đề bài rất ngắn, chỉ vài dòng, nhưng khi
giải toán phải vẽ thêm và chứng minh một số câu hỏi “trung gian” trước khi đi
tới câu hỏi chính của bài toán. Giải được một bài toán như vậy “trần thân”
nhưng khi hoàn thành sẽ có cảm giác khoan khoái, thích thú vì tự mình đã khám
phá được lộ trình (khá dài) để đi đến kết quả cuối cùng.
Sau
này đi dạy kèm tôi cũng gặp vài bài ở lớp dưới - giống y chang – nhưng được
phân ra nhiều câu hỏi nhỏ. Lời giải của câu hỏi trước sẽ là chiếc cầu dẫn đường
đến lời giải của câu hỏi sau và cứ thế cho đến câu hỏi chính của bài toán. Giải
những bài toán phân mảnh ấy dễ dàng hơn nhiều.
Nguyễn
Đức Tùng có lẽ cũng thấy điều tương tự như thế trong thơ. Anh rất chú ý đến cấu
trúc của tứ thơ, đặc biệt là câu (hoặc mấy câu) cuối. Cây cầu liên tưởng ở đây
thường bị cắt một (hoặc hai) nhịp nên độc giả không thể nhẹ nhàng bước qua như
những bài thơ bình thường khác. Khoảng cầu bị cắt có lúc hẹp, có lúc rộng. Hẹp,
độc giả có thể nhảy qua; rộng hơn một tý, phải xuống nước lội qua; có khi vừa
rộng vừa sâu, phải cởi quần áo bỏ vô bọc ny lông - chỉ mặc quần lót – bơi qua.
Đây là một cách “nâng tầm” bài thơ – đòi hỏi độc giả phải nâng khả năng liên
tưởng cao hơn nữa để có thể nắm bắt tứ thơ. Dĩ nhiên, việc hiểu được ý tác giả
từ bài thơ như thế, bù lại, sẽ trao tặng độc giả một phần thưỏng - một khoái
cảm khó tả - thấy khả năng thưởng thức thơ của mình đã vươn tới một tầm cao
mới.
Tuyệt
chiêu của bài thơ nằm ở câu (hoặc mấy câu) kết. Giống như ván bài xì phé gay
cấn, chỉ khi con bài tẩy lật lên mới biết kẻ thắng, người thua. Trong Cánh Đồng
(và mấy bài thơ cùng loại) Nguyễn Đức Tùng đã khéo léo giữ kín con bài tẩy đến
giây phút cuối cùng. Khi đọc xong câu kết độc giả ngẫm nghĩ một lát rồi “À” lên
một tiếng ngạc nhiên, khoái trá. Có được tiếng “À” đó vị độc giả đã bước vào
“bến bãi”. Ngừng ở đó hay thả hồn đi xa hơn nữa là tùy ý mỗi người.
Tứ Thơ
Tứ
thơ của Cánh Đồng có thể tóm gọn trong một câu: Sau ba năm chung thủy với người
chồng đi xa người phụ nữ đã ăn nằm với người đàn ông ở tinh cầu khác.
Điểm
lạ nữa của Cánh Đồng là tứ thơ. Đối với thơ Việt thì cho đến thời điểm này tình
dục trong thi ca, tuy không còn xa lạ nhưng thi sĩ khi tiếp cận đề tài vẫn còn
nhiều phần kiêng dè, e ngại. Sau đây là mấy bài thơ được giới thiệu theo thứ tự
từ “hiền hòa” đến sừng sỏ.
1/
CHỢT THỨC
Lão
Trư Bát Giới đang ngủ yên
bỗng
bật dậy phùng mang trợn mắt
là
lúc lòng rạo rực
nhớ
em.
(Phạm
Đức Nhì)
Bài
thơ tôi viết trong lúc xa nhà mấy ngày, “nổi hứng bất tử”. Tứ thơ đụng tới
chuyện đó nhưng lại rất “hiền”. Với cánh đàn ông, đây là chuyện bình thường;
thằng bé “vươn mình đứng dậy” làm lòng rạo rực nhớ vợ, rồi nghe chừng chẳng có
cơm cháo gì đành lặng lẽ co vòi ngủ yên. Bài thơ ngắn, đơn giản, không được
“bàn ra tán vào” nhiều nên đem ra lót đường để chuẩn bị giới thiệu những bài
thơ sừng sỏ hơn.
2/
CHẠM
Vùi vào
tóc anh
Chạm
rong rêu đại dương, ẩm mục rừng già
ngai ngái phù sa cánh đồng rơm rạ
Chạm sợi đa đoan
nhuộm màu dâu bể
Chạm sợi muộn phiền
ẩn mình lặng lẽ
Chạm
rong rêu đại dương, ẩm mục rừng già
ngai ngái phù sa cánh đồng rơm rạ
Chạm sợi đa đoan
nhuộm màu dâu bể
Chạm sợi muộn phiền
ẩn mình lặng lẽ
Vùi vào môi anh
Chạm thềm mê man, chạm bờ mộng mị
Chạm lời chối bỏ trong lời thầm thì
Dâng bời bời nhớ
Chạm bời bời quên
Chạm thềm mê man, chạm bờ mộng mị
Chạm lời chối bỏ trong lời thầm thì
Dâng bời bời nhớ
Chạm bời bời quên
Vùi vào tay anh
Chạm đường vân quen mịt mùng lạc lối
Chạm vết thương sâu dấu chai cằn cỗi
Hôn ngón yêu thương
Chạm ngón lạnh lùng
Chạm đường vân quen mịt mùng lạc lối
Chạm vết thương sâu dấu chai cằn cỗi
Hôn ngón yêu thương
Chạm ngón lạnh lùng
Vùi sâu vào anh
Vùi vào giấc mơ
Vào đêm
Không anh.
Vùi vào giấc mơ
Vào đêm
Không anh.
(Đậu Thị Thương)
Tác giả kể lại cái cảm giác sung sướng, hạnh phúc của mình trong một đêm được đắm đuối mê say dâng trọn cả linh hồn lẫn thể xác cho người yêu, nhưng bừng tỉnh mới biết đó chỉ là … mơ.
Màn ái ân trong bài thơ rất lãng mạn và “ấn
tượng”. Cô giáo Đậu Thị Thương
chỉ nói bóng gió rất xa nhưng do sức gợi
cảm, sức khêu gợi tưởng
tượng mạnh mẽ của
ngôn ngữ khiến một
người đọc tuổi xuân không còn phơi phới như tôi cũng hối hả
chạy “tới bến”
trước khi cô bừng tỉnh giấc mộng
tình. (3) Tuy nhiên, xin bạn đọc ghi nhận một điều, màn yêu đương nồng thắm ấy tác giả dành cho nguời tình (chứ không phải ai khác). Chữ Dâm ở đây vẫn chưa dám vượt lằn ranh để bước qua vùng cấm.
3/
TRÁI TIM RAO BÁN
Có thể
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
rồi sẽ đến một ngày
em phải xót xa
xót xa
đem trái tim mình
rao bán
một ngày
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau – niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
mù khơi hạnh phúc
biền biệt tình yêu
còn lại trái tim biết đớn đau – niềm kiêu hãnh cuối cùng
rồi em sẽ phũ phàng
rao bán
một ngày
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
mỏi mòn trong ảo vọng
em sẽ đem bán đi trái tim mình
không cần chọn lựa người mua
không cần sòng phẳng!
chỉ để mong nhận lại một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…
cho bớt chông chênh…
(Đinh Thị Thu Vân)
Trong tận cùng của
cô đơn và “mỏi mòn trong ảo vọng” Đinh Thị Thu Vân đã rao bán trái tim mình với giá rất
đặc biệt: Cho không (4).
Vâng, chị cho biết
chỉ cần:
nhận lại
một chút tình
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
dẫu là thương hại!
một chút tình
cho bớt chông chênh…
cho bớt chông chênh…
Ở đây không thấy cơn hứng tình như Chạm của Đậu Thị Thương. Đinh Thị Thu Vân đã khéo léo dấu tình dục trong vỏ bọc tình yêu. Nhưng khi đã trao trái tim thì chữ Dâm sẽ
ngạo nghễ bước vào. Khác với tác giả của Chạm - chỉ Dâm với
người yêu - chị (ĐTTV) “sẵn
sàng trao trái tim cho bất
cứ ai, không cần chọn lựa”. Để
đòi quyền được Dâm ĐTTV đã sẵn sàng đi xa hơn,
sẵn sàng trả giá cao hơn
Đậu Thị Thương rất nhiều.
Chính vì thế tứ thơ của Trái Tim Rao Bán được đánh giá cao hơn
tứ thơ của Chạm.
4/
CÁNH ĐỒNG
Tứ
thơ: Sau ba năm chung thủy với người chồng đi xa người phụ nữ đã ăn nằm với
người đàn ông ở tinh cầu khác.
Vâng, tình dục – thỏa mãn chữ Dâm – là một nhu cầu
thiết yếu của con người. Phong tục,
tập quán, lề thói xã hội
nhiều nơi vẫn còn ngăn trở việc thỏa mãn “cái khoái thứ ba” rất
nhân bản ấy, đặc biệt là đối
với phụ nữ. Nguyễn Đức Tùng, qua bài thơ Cánh Đồng,
đã đi xa hơn những thi sĩ cùng thời. Theo ông, “Khi cơn Dâm trỗi dậy thì làm tình – ngay cả với người từ tinh cầu khác – cũng là chuyện bình thường, không có gì phải mặc cảm, hổ thẹn hết”.
Tôi đã từng bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình trước lòng dũng cảm của Đậu Thị Thương và Đinh Thị Thu Vân. Hai nhà thơ nữ đã đạp đổ cái hàng rào văn hóa, đòi lại quyền
được tự do nói đến,
và nếu cần, thỏa
mãn cái nhu cầu nhân bản đó trong đìều kiện và hoàn cảnh của riêng mình, chứ không chịu
gò bó trong những lề luật cứng ngắc,
bất công của xã hội.
Giờ đây - với tài thơ
và tầm nhìn của Nguyễn Đức Tùng – các
chị sẽ có một đồng minh đáng tin cậy.
Cảm Xúc
Cảm
xúc ở tầng 1: Cảm xúc độc giả có được khi tiếp xúc với ngôn ngữ, hình tượng,
cấu trúc câu của bài thơ (ngôn ngữ bóng đá là kỹ thuật cá nhân của cầu thủ). Vì
tránh dùng những từ, hình tượng lung linh, bắt mắt nên ngôn ngữ thơ và cấu trúc
câu thơ của Cánh Đồng đơn giản đến mức tối đa, không gây hứng thú cho người
thưởng thức thơ quen thuộc. Cầu thủ của đội bóng Cánh Đồng không phô diễn tài
nghệ cá nhân mà chỉ cố hoàn thành nhiệm vụ Huấn Luyện Viên giao phó cho mình
trong đấu pháp toàn đội. Họ đá rất hiệu quả nhưng không đẹp.
Cảm
xúc ở tầng 2: Cảm xúc có được khi nhận ra cái hay, cái đẹp trong thế trận của
bài thơ. Cánh Đồng đã cho độc giả cái cảm giác ngạc nhiên thích thú khi đọc
xong 2 câu kết và thấy được ẩn ý của tác giả. Với đấu pháp mạch lạc, ăn ý và
bất ngờ đội Cánh Đồng đã tạo được bàn thắng đẹp, kết thúc trận đấu, tiếng reo
hò, vỗ tay vang dậy cầu trường.
Cảm
xúc ở tầng 3: Loại cảm xúc cao cấp nhất, cho người đọc cảm giác sảng khoái
nhất. Nó là thứ hơi nóng không nằm trong câu chữ mà tỏa ra từ đâu đó giữa 2
hàng kẻ, không thể “bắt” được bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận bằng tâm hồn.
Khi cảm xúc tầng 3 dâng cao ngất chúng ta có hồn thơ. Hồn
thơ có được trong trường hợp tác giả viết lúc cao hứng, lúc lên cơn điên, cơn
giận, cháy bỏng yêu thương, rực lửa căm thù … , lúc tâm hồn thoát khỏi sự điều
khiển của lý trí. Cánh Đồng không có loại cảm xúc này. Lý do: Ý thơ có
thể chợt đến nhưng thế trận của bài thơ được lý trí xen vào soạn thảo ngay sau
đó, đặc biệt là đoạn kết. Hơn nữa, bài thơ lại ngắn, không có chỗ để “sóng sau
dồn sóng trước” đẩy cơn hứng của tác giả đến cao trào. Chính vì thế, mặc dù nắm
vững lý thuyết hơn, viết chắc tay hơn, Cánh Đồng so với Mắt Bồ Câu vẫn thiếu
cái tươi mát đến từ một tâm hồn dạt dào cảm xúc.
Khuyết Điểm
Bài
thơ, theo tôi, có 3 khuyết điểm:
1/
Có vài chữ dư thừa, không cần thiết.
a/ Chữ “Trong” ở câu 6.
b/ Hai chữ “mà thôi” ở câu cuối. Nguyễn Đức Tùng không bị trói buộc với quy
luật của vần nên “mà thôi” không cần thiết. Tuy nhiên, nếu vì muốn có một chút
âm hưởng của “vần xa” (rồi, thôi) mà đưa vào thì gượng quá.
2/
Kịch bản
Hãy
cùng tôi đọc mấy câu đầu từ bài thơ Năm Mới của Nguyễn Đức Tùng:
Một kẻ nào đã khóa cánh cửa vào năm mới
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang
Đây
là một điều rất phi lý. “Năm mới” chỉ là cái mốc thời gian, làm gì có cửa để
đóng với mở. Nhưng đọc hết bài thơ (ở phần Phụ Lục) chúng ta sẽ thấy tác giả đã
biến cái phi lý thành có lý (trong nghệ thuật) và đã tạo nên cái duyên dáng,
cái đẹp trong thơ.
Trong
Cánh Đồng, tác giả đã rất thành công trong cách tiết lộ “người đàn ông xấu
xí” là từ tinh cầu khác. Nhưng thông tin “Chị đã thất tiết một cách rất
lạ kỳ” – tiêu điểm của tứ thơ - thì lại xem như một tiền đề, bắt người đọc
chấp nhận mà không giải thích. Nhiều nghi vấn được đặt ra xung quanh hành động
“thất tiết” đó đã làm bài thơ giảm sức thuyết phục.
3/
Không có cảm xúc ở tầng 3 – không có hồn thơ.
Kết Luận
Với
tôi, Cánh Đồng là một bài thơ lạ. Lạ mà hay. Vì lạ nên bài thơ kén người đọc.
Và dĩ nhiên, có những nhận xét trái chiều về giá trị nghệ thuật của nó. Những
xao động như thế trong làng thơ, theo tôi, là lành mạnh. Trong một bình luận
trên FB dưới bài Bình Thơ Nguyễn Đức Tùng - Thơ Tình: Những Con Rệp của Nguyên
Lạc, Nguyễn Đức Tùng viết “Tác phẩm văn học người khen kẻ chê là chuyện
thường, nhưng phê bình không chỉ là khen chê, mà cốt ý làm cho người đọc và
người viết cùng nhau ngẫm nghĩ, phân tích, tự mình rút ra nhận xét riêng”.
Tôi hoàn toàn đồng ý với anh. Mong rằng bài viết ngắn này sẽ là cái cớ để ngưòi
viết và cả người đọc nhìn lại và tự rút ra (những) nhận xét hữu ích cho riêng
mình. Được như thế tôi sẽ rất vui và cảm ơn cả người viết lẫn người đọc nhiều
lắm lắm.
Phạm
Đức Nhì
CHÚ
THÍCH:
1/
Mắt Bồ Câu – Bài Thơ Mới Đọc Lần Đầu, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
2/
Phần Phụ Lục
3/
Bài Thơ “Chạm” & Mấy Lời Bình, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
4/
Trái Tim Rao Bán – Bài Thơ Đầy Bản Sắc, Phạm Đức Nhì, phamnhibinhtho.blogspot.com
PHỤ LỤC: “Những Con Tương Cận” Với CÁNH ĐỒNG
NHỮNG CON RỆP
Ngày thứ hai của tuần trăng mật
Chúng ta ngủ trong một khách sạn rẻ tiền
Những con rệp cắn anh suốt đêm
Bây giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết
Khi mỗi lần đi ngang mộ em
Khi mỗi lần đi ngang mộ em
CHA VÀ CON
Mười
bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi
trở về nằm trên chiếc giường cưới của ông
Đọc
cuốn Kiều để mở
Nửa
đêm thức dậy ngồi đánh cờ một mình
Buổi
sáng cạo râu bằng dao cạo của cha tôi
Mười
bốn năm sau ngày cha tôi mất
Tôi
về bốc mộ ông
Cầm
nắm đất trên tay
Gió
thổi
Một
chiếc xương cá mỏng
Buổi
chiều tôi mang đôi ủng của cha tôi
Đi
thăm cánh đồng nước lớn
Đứng
trước hiên nhà
Chợt
nhớ về đứa con trai đã đi xa
MẸ
Mẹ đã tám mươi
Người nhỏ lại
Hét lớn bên tai
Mẹ chỉ nghe rì rào gió thổi
Phá vỡ im lặng
Mẹ thu mình lên cây nhãn
Giữa những cái trứng
Của chim họa mi
Khi mẹ đi xa rồi
Mọi người trong nhà vẫn còn lớn tiếng
Mẹ đã tám mươi
Người nhỏ lại
Hét lớn bên tai
Mẹ chỉ nghe rì rào gió thổi
Phá vỡ im lặng
Mẹ thu mình lên cây nhãn
Giữa những cái trứng
Của chim họa mi
Khi mẹ đi xa rồi
Mọi người trong nhà vẫn còn lớn tiếng
NĂM MỚI
Một
kẻ nào đã khóa cánh cửa vào năm mới
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang
Chúng ta không có năm mới
Tất cả chúng ta đứng ngoài hành lang
Một
số người kiên nhẫn đợi chờ
Một số người lầu bầu chửi rủa
Một số người chán nản bỏ đi
Một số người lầu bầu chửi rủa
Một số người chán nản bỏ đi
Bỗng
dưng cánh cửa bật mở
Quá nửa đêm, khi mọi người đã ngủ
Khi tất cả đã uống say mèm
Chỉ còn mưa, người đàn ông trước thềm, đứa trẻ ngủ trên vai
Quá nửa đêm, khi mọi người đã ngủ
Khi tất cả đã uống say mèm
Chỉ còn mưa, người đàn ông trước thềm, đứa trẻ ngủ trên vai
TÁM TUỔI
Những ngày buồn
Tôi ôm con trai ngủ
Tôi ôm con trai ngủ
Lắng nghe mưa rơi rì rào
Nó bảo: con thích thế này
Nó bảo: con thích thế này
Nằm cong người lại
Trong lòng tôi, nhắm mắt
Trong lòng tôi, nhắm mắt
Tôi đã làm hết sức
Công việc càng nhiều thêm
Tôi đã khôn ngoan hơn mười năm trước
Vẫn không ngớt phạm lỗi lầm
Công việc càng nhiều thêm
Tôi đã khôn ngoan hơn mười năm trước
Vẫn không ngớt phạm lỗi lầm
Thế
này là như thế nào? Tôi hỏi
Con tôi trả lời: là nằm im
Không làm toán, không chen lấn, không học bài, từ từ trôi về phía trước
Con tôi trả lời: là nằm im
Không làm toán, không chen lấn, không học bài, từ từ trôi về phía trước
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét