Vũ Nho chủ trang
MÙA
XUÂN KHÔNG CHỊU LÙI
Đọc
Bóng
mát dọc đường xa của Vũ Quần Phương, nhà xuất bản Hội nhà Văn, 2014
Vũ Nho
Tập phê bình tiểu luận của nhà thơ Vũ Quần Phương
khiến tôi nhớ đến câu thơ “ Mùa xuân không chịu lùi” của Chế Lan Viên. Thống kê
43 bài trong tập càng cho thấy rõ ý đó. 23 trên tổng số 43 bài được viết từ năm
2010 đổ lại nay. Nghĩa là quá nửa số bài viết khi nhà thơ đã ở tuổi 70 và ngoại
70, cái tuổi “xưa nay hiếm”. Chỉ có 5 bài viết dưới tuổi 60, mà bài sớm nhất là
viết về Hoàng Nhuận Cầm khi nhà thơ kiêm nhà phê bình tròn 40 tuổi. Nhưng vấn
đề không chỉ là viết khi cao tuổi. Mà nó thể hiện sức xuân, niềm đam mê, sự
sáng tạo bền bỉ và sung sức của nhà thơ làm lí luận, phê bình.
Hầu như toàn bộ các bài viết trong tập này đều
là viết về thơ, một lĩnh vực mà tác giả có thành tựu sáng tác, thành tựu thẩm
bình ( Trừ bài viết giới thiệu Trúc Khê, điếu văn cho nhà giáo Văn Tâm, nỗi
niềm Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Bằng nhớ thương xứ bắc và lời giới thiệu tập tản văn
của bác sĩ Trần Hữu Thăng). Cũng phải thôi. Bởi Thơ là lĩnh vực mà vị bác sĩ bỏ
nghề y đam mê và “đánh cược” cả cuộc đời mình.
Tác giả có bàn đến bản sắc văn hóa dân
tộc, chuẩn mực thẩm định thơ, thơ cho tuổi thơ, đánh giá cuộc thi thơ. Nhưng
theo tôi, ấn tượng nhất của tập sách chính là những tiểu luận về các nhà thơ
thành danh trên văn đàn như Thế Lữ, Đoàn văn Cừ, Bích Khê, Lưu Trọng Lư, Tố
Hữu, Hoàng Trung Thông, Văn Cao, Thu Bồn, Vũ Từ Trang, Phạm Đình Ân,… Cùng với
đó là những cảm nhận phân tích, bình giá thuyết phục về những tập thơ được người
phê bình động bút.
Chắc
chắn Vũ Quần Phương khi đã chỉ ra căn bệnh phê bình của đồng nghiệp : “ Những bài bình luận về tác giả tác phẩm rất
rộng rãi lời khen và ồn ào chữ nghĩa không thua gì các quảng cáo thực phẩm chức
năng trên Tivi” ( Về chuẩn mực thẩm định thơ, trang 354), ông cố tránh xa
trong công việc của mình. Bởi vậy mà đọc ông, chúng ta cảm thấy thân gần, tự
nhiên và thấy rõ tính khe khắt, chừng
mực, cẩn trọng và khoa học. Nói về đặc sắc của Bích Khê, Vũ Quần Phương ca
ngợi, nhưng không một chiều. Ông thấy ưu điểm nhưng kèm theo nó lại là hạn chế.
Khó mà bắt bẻ khi Vũ Quần Phương viết : “ Bích
Khê có nhiều câu thơ hay một cách ma quỷ như vậy. Nhưng khi xét toàn bài, những
kĩ xảo về chữ, về câu về hình, về nhạc được chăm chút quá lại làm hại hơi thở
tự nhiên của cảm xúc và gò cả tư tưởng của thơ lại. Bài thơ như một sự chơi kĩ
thuật, diện kĩ thuật. Diện thế, người ta dễ quên ngắm nhan sắc mà chỉ thấy áo quần” (
Trang 28). Với bất cứ tác giả nào, Vũ Quần Phương cũng gắng phát hiện ra nét
riêng, nét độc đáo. Chẳng hạn với nhà thơ Hồ Dzếnh một nhận xét rất tinh mà
chính xác “ Vào nghề trong khí quyển của
phong trào thơ mới, Hồ Dzếnh cũng hít thở vào hồn mình ít nhiều dạng vui buồn
cười khóc của nó. Ở điểm này, điểm khác, ông đã gặp Xuân Diệu, Huy Cận hay
Nguyễn Bính… Nhưng ở bài Chiều, ông
chỉ gặp chính ông” ( trang 82). Với thơ Văn Cao : “ Sức nặng hàm súc từ tình cảm chuyển hóa sang trí tuệ là một đóng góp
trội của Văn Cao cho thơ Việt đương đại chúng ta vốn nặng về tình mà còn nhẹ về
tư tưởng” ( trang 92). Đối với tác giả Trần Huyền Trân, Vũ Quần Phương
không đồng tình với Hoài Thanh, Hoài Chân khi đánh giá thơ Trần Huyền Trân “
hiền lành”. Ông coi đóng góp đột xuất của Trần Huyền Trân chính là sự “không
hiền lành” đó. Đồng thời, bình luận về đặc sắc
thơ của nhà thơ họ Trần, ông viết : “ Cốt lõi của nó là lãng mạn, khuynh hướng của nó là chiến đấu, là để hồn
bay lên trong hào sảng của tự do. Thiếu đôi cánh say đắm, hào sảng của lãng mạn
ấy, để chỉ chăm chăm kể lể hiện thực, thơ Trần Huyền Trân lập tức từ dáng bay
thiên nga kì ảo rơi xuống thành gà vịt chạy bộ trên sân” ( trang 109).
Theo
dấu những tác giả và các tập thơ
của họ, người đọc cũng sẽ thú vị khi biết được cách đọc văn bản của người viết
phê bình. Với tư cách là nhà thơ, Vũ Quần Phương đã từng viết với bạn đọc :
Hỡi
ai tim đập trên trang giấy
Có
thấy lòng tôi run xuống câu
Tiếng gọi
Bây
giờ với tư cách là người đọc, Vũ Quần Phương đọc Hoàng Trung Thông : “ Tôi
đọc ông mà như nghe chính ông rì rầm tâm
tình. Nghe được cả những tiếng chưa thốt
thành lời” ( trang 150). Trong lí
thuyết đọc hiện đại, người ta gọi đó là đọc giữa dòng ( between the lines) và đọc sau dòng (behind the
lines). Đọc như thế, nghe như thế nên Vũ Quần Phương cảm được những điều người
khác chưa cảm, chưa nghe hoặc cảm, nghe chưa tới. Ông băn khoăn vì nếu hiểu
con hổ là biểu tượng của dân ta khao khát tự do, nhớ chiến công hiển hách thì
làm sao cắt nghĩa được ý muốn của nó làm chúa tể “tham vọng thống trị khắc
nghiệt tàn bạo cả muôn loài”? ( trang 14). Ông còn tinh tường hơn cả một số vị
viết sách giáo khoa, khi quả quyết rằng dù Nguyễn Huy Tưởng viết “ Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết
Vũ Như Tô phải?”, nhưng Nguyễn Huy Tưởng đã có sự chọn lựa lời đáp cho
riêng mình. Và ông đã cắt nghĩa đúng “ nỗi niềm của Nguyễn Huy Tưởng” trong
kịch Vũ Như Tô “ Không thể dung thứ một ý
đồ nào mà dân chúng đã phản đối. Không thể hòa đồng với bất kì một mưu toan
hưởng lạc nào của thống trị làm hại đến lợi ích của nhân dân” ( trang 115).
Trong các bài viết, Vũ Quần Phương
thuyết phục bạn đọc bằng sự lịch lãm, am tường đối tượng. Một số tác giả, ông
có dịp gần gũi, thân quen khi còn làm biên tập viên của nhà xuất bản. Chính
công việc biên tập nghiêm túc, cẩn trọng, đòi hỏi đọc nhiều, tiếp xúc nhiều đã
giúp cho kinh nghiệm thẩm thơ của Vũ Quần Phương thêm dày dặn, cảm nhận thêm
sắc bén. Viết về Thu Bồn, một người gần như đồng trang lứa, Vũ Quần Phương có
phát hiện rất đáng ghi nhận : “ Thu Bồn
có tiềm lực thơ theo mạch ấy ( chiều sâu của hoài niệm, trải nghệm – VN
chú) nhưng ông ít khai thác nó, ít lắng
nghe nó. Câu thơ ông thích bay lên đầu sự kiện – cao đẹp, phóng khoáng- hơn là
chìm sâu vào lòng nó – thâm trầm, sâu lặng” ( trang 242). Với Quang Dũng,
ông khẳng định sau nhiều suy ngẫm với
câu hỏi kèm theo : “ Bài Tây tiến là bài thơ có phẩm chất thẩm mĩ kì lạ nhất
trong các bài thơ thời kháng chiến chín năm. Nó không cũ. Sẽ không bao giờ cũ.
Nhưng nó cũng không mở đường, dù là cho cái hay tương tự. Lí do gì, chất xúc
tác gì tạo cho chất thơ, chất hồn ấy xuất
hiện. Và lí do gì làm nó không trở lại,
không tái sinh, không nhân giống?”. ( trang 128). Việc so sánh chú bộ đội
trong thơ Trần Đăng Khoa với anh bộ đội trẻ Hoàng Nhuận Cầm cũng là một phát
hiện so sánh tinh tế, giàu sức thuyết phục.
Trong
khi trình bày, Vũ Quần Phương không bao giờ cao giọng, riết róng. Ông cứ từ tốn mà đưa ra
ý kiến của mình. Ngay cả khi cần tranh luận thì cũng từ từ đưa ra cách hiểu của
mình. Còn phần kết luận thì dành cho người đọc. Tranh luận với Mai Văn Phấn về
đánh giá thơ ca trì trệ, lạc hậu, Vũ
Quần Phương tự tin khẳng định với lối ví
von dân dã: “ Cái cần câu của chúng ta
quả có khác cái cần câu của thiên hạ, còn để đánh giá mức tiên tiến, mức lợi
hại của cần câu thì chí ít cũng phải xem lượng cá trong giỏ các ông câu ấy. Một
nền thơ đủ để bảo vệ, để phát triển tâm hồn, tư tưởng, cách hành xử của một dân
tộc không thể là trì trệ, lạc hậu, dù nó không tân kì trong quảng cáo, trong
tuyên ngôn” ( trang 249). Tranh luận ngầm với những ý kiến chê bai sự phiến
diện của thơ chống Mĩ, Vũ Quần Phương đã
có ý kiến xác đáng : “ Nó không phải là
một khuyết điểm. Nó là mặt sau của cái huân chương. […] Một phiến diện của thơ
để tiết kiệm xương máu của người” ( trang 197-198).
Một điều khiến cho tập sách gây ra và giữ được hứng thú với bạn đọc chính
là những thẩm bình tinh tế của tác giả đối với những câu thơ, đoạn thơ, có khi
cả một bài thơ ngắn được chọn. Những câu thơ đặc sắc nhất của các tác giả đều
được trích dẫn, thẩm bình. Có khi trong bài viết như về Phạm Đình Ân, Vũ Quần
Phương không ngần ngại bình trọn cả hai bài thơ ngắn là Đồng hồ và Ghế. Bài viết
về Vũ Từ Trang thì dành nhiều dòng để bình bài thơ Ngược
núi Thiên Thai. (Bài thơ ấy sau này ông bình những 4 trang trong tập Bình thơ in năm
2012). Thật tiếc là lời bình về sau thiếu
mất mấy dòng dí dỏm này : “ Trong cơn say điển tích, tác giả làm lạc mất
con hạc trắng của Thế Lữ mà chính ông thả bay ở đầu bài thơ, rồi túm nhầm vào
con hạc vàng của Thôi Hiệu bên Tàu. Thế là không gian hiện thực cũng thành
không gian ảo” ( trang 281).
“Bóng mát dọc đường xa” là tập phê
bình thứ tư của nhà thơ Vũ Quần Phương. Vẫn với sự lịch lãm và từng trải cả
trong nghề thơ lẫn nghề bình thơ, nhà thơ đã đem đến cho bạn đọc nhiều phân
tích, nhận định, đánh giá có giá trị về thơ và các nhà thơ đương đại. Đây là một cố
gắng rất đáng ghi nhận của nhà thơ. Những bóng mát của cây thơ dọc đường xa cần
thiết biết bao nhiêu đối với mọi người bộ hành. Chúc mừng nhà thơ học cây và làm như cây:
…bền
cùng năm tháng
Mặc
mưa nắng vui buồn đến cữ lại ra hoa
Vũ Quần Phương –
Học cây
Hà Nội, cữ rét tháng 12/2014
Đăng báo Quân Đội Nhân Dân cuối tuần số 992 ngày 4/1/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét