NGUYỄN DU, NGƯỜI TRÁNG SĨ
Lời giới thiệu của Nguyễn Khôi
Mời quý anh chị và các bạn đọc bài khảo luận "Nguyễn Du, Người Tráng Sĩ" của chị Thảo Nguyên. Tôi quen sơ chị Thảo Nguyên thôi, lần đầu tiên tôi biết đến chị ấy là nhờ cách đây khoảng hai năm tôi có dịp đọc qua cuốn sách "Đọc và dịch thơ chữ Hán của Nguyễn Du" của chị ấy tại
nhà một người bạn bên Bỉ. Nói tới Nguyễn Du người Việt mình thường
liên tưởng ngay đến Truyện Kiều, cũng như nhắc tới Hồ Xuân Huơng người
ta nghĩ ngay tới những bài thơ chữ Nôm có hai nghĩa của nữ sĩ. Nhưng ngoài thơ Nôm, cả hai thi si đều có những bài thơ chữ Hán đầy ẩn dụ, chất chứa những tình cảm riêng tư của mình. Tôi
không biết gì cả về thơ chữ Hán của Nguyễn Du nên có cơ hội đọc một
cuốn sách viết khá công phu, cẩn thận và cân nhắc về đề tài này tôi rất
thích. Cũng nhờ đọc cuốn sách đó mà tôi học thêm được nhiều điều mới lạ
mà tôi không biết về Nguyễn Du.
Tuần
vừa qua tôi có chuyện vào thành phố New York, nhân dịp đó tôi và nhà
tôi được gặp tận mặt chị Thảo Nguyên. Nếu tôi nhớ không lầm, chị lớn
hơn tôi khoảng 7 tuổi thì phải. Trước kia khi còn ở Sài Gòn, chị
là giáo sư dạy toán trường Gia Long. Sau này chị theo chồng qua Bỉ du
học rồi cả gia đình định cư ở New York. Chị tiếp tục dạy toán tại Lycée
Français de New York. Trường này ở đâu thì ... à hèm ... quý anh chị
và các bạn thử đoán lấy nhé! Bây giờ chị về hưu rồi nhưng chị tiếp tục
bận rộn với những công trình viết lách, khảo cứu về văn học của chị.
Bữa đó trời mưa tầm tã như thác đổ, ba chị em rủ nhau ra quán cà phê
Starbucks ở góc đường gần nhà nói chuyện thơ văn (!). Chỉ thiếu chai
rượu cay, ly cà phê đắng hay gói thuốc lá là đã thật hợp tình hợp cảnh
haha. Cũng may cả ba chị em không ai thích rượu chè, cà phê hay thuốc lá cả. Cuộc hội ngộ thật ngắn ngủi, chỉ khoảng hơn một tiếng đồng hồ thôi vì
tôi và nhà tôi có công chuyện phải đi, không nán ngồi lâu được. Qua
cuộc hội ngộ ngắn ngủi đó tôi thấy chị Thảo Nguyên là người lắm tài, có kiến thức rộng, nói chuyện rất có duyên. Không những chị là nhà giáo, chị còn là nhà văn, nhà dịch thơ, và họa sĩ nữa.
Sau
buổi hội ngộ, chị Thảo Nguyên gởi tôi và nhà tôi bài viết "Nguyễn Du,
Người Tráng Sĩ". Đây là một bài viết khá súc tích, khúc chiết, nêu lên
một khía cạnh mới lạ cho tôi về Nguyễn Du, người tráng sĩ. Mời quý anh
chị và các bạn thưởng thức bài khảo luận này.
Nguyễn Du, Người Tráng Sĩ
Phạm Thảo Nguyên
Thuở Trời Đất Nổi Cơn
Gió Bụi
Năm 1783
Nguyễn Du 22
tuổi, bố là Xuân quận công Nguyễn Nghiễm, mất đã lâu, được anh là Hồng Lĩnh Hầu Nguyễn Khản nuôi dưỡng, cả
hai từng làm tham tụng, tức tể tướng, đại thần đầu triều. Thi sĩ vừa đỗ tú tài, liền đi tập ấm chức quan võ Chánh thủ hiệu quân hùng hậu hiệu, từ người
cha nuôi họ Hà mới mất tại
Thái Nguyên, nơi anh Nguyễn Khản kiêm chức trấn thủ. Lúc đó thuộc nhà Lê Trung Hưng, thời Lê Trịnh, vua Lê đã
mất toàn quyền, các chúa Trịnh điều khiển quốc gia từ hơn 200 năm rồi, tình
hình trong nước rất hỗn loạn, chính trị thối nát. Sau nhiều cuộc biến loạn, vua
Lê ngầm cầu cứu Trung Hoa, tháng 11 năm 1788 nhà Thanh đưa 29 vạn quân sang
bình trị nước ta. Vua Lê Chiêu Thống và quần thần ra đón về Thăng Long. Chưa đến hai tháng sau, ngày mùng 5 tháng
giêng năm Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung từ Phú Xuân mang đại quân ra thần tốc đại
phá quân Thanh tại Đống Đa, chiếm Thăng Long. Nhà Lê sụp đổ, vua quan nhà Lê một
số theo quân Thanh cuống cuồng chạy về Tầu. Nhà Tây Sơn trị vì. Nguyễn Du cùng những
quan lại nhà Lê không muốn hợp tác với Tây Sơn, bỏ trốn sợ bị truy đuổi. Đó là
cái mốc rất quan trọng trong đời thi sĩ: Đang là quan võ nhà Lê, thành kẻ không nhà,
phiêu bạt đói rét. Thi sĩ nghèo đói tới nỗi phải nhận lòng thương hại của người
đời trong bài Khất Thực (Xin Ăn):
Cơ hàn bất giác thụ nhân liên… Đói
rét bất ngờ nhận của cho…
Nguyễn Du rời bỏ kinh kỳ một
mình chạy về phía nam. Là một cậu chiêu
(tên gọi con đại thần nhà Lê) nổi tiếng văn học, thi sĩ chế nhạo mình là người rừng, khi trốn chui trốn lủi
trong núi sâu rừng thẳm, dấu gốc tích, lập vườn thuốc khá thơ mộng trong bài
thơ Sơn Cư Mạn Hứng, (Sống Trong Núi Cảm Hứng):
Nam khứ Trườn An thiên lý dư Nam hướng kinh thành ngàn dậm dư Quần phong thâm xứ dã nhân
cư Người rừng sống giữa núi thâm u Sài
môn trú tĩnh sơn vân bế Ngày
yên cửa trúc mây ngàn phủ Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ … Xuân
lạnh dậu tre vườn thuốc thưa…
Tuy trong lòng lo lắng cho các
anh chị em nơi quê nhà:
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt Các em quê cũ bặt tin tức Bất kiến bình an nhất chỉ thư Chẳng thấy bình an chẳng
được thư.
Xưa nay
các nhà biên khảo đều cho rằng sau khi vua Quang Trung phá tan giặc Thanh tại Đống
Đa 1789, vua Lê chạy sang Tầu, Nguyễn Du không theo kịp, đã về Quỳnh Côi quê vợ
ngay. Tuy nhiên, Đào Duy Anh trong Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, trang 373(1) chú thích
bài thơ trên, viết: Không rõ lúc này Nguyễn
Du ở đâu mà vừa xa Thăng Long vừa xa quê hương. Thật ra, Nguyễn Du không về
quê vợ, và cũng không tìm về anh mình vì
biết rằng cả hai anh Nguyễn Nể và Đoàn Nguyên Tuấn đã theo Tây Sơn từ 1788. Bài thơ này cho thấy Nguyễn Du chạy xa quê, xa
kinh thành Thăng Long, hơn nữa còn xác nhận không phải thi nhân về ở Quỳnh Côi,
quê vợ, châu thổ sông Hồng, đất bồi bằng phẳng bên bờ biển, mà đang lẩn trốn trong núi sâu phía nam. Những bài viết khác cùng thời cũng tỏ ra là ông sống một
mình cô đơn giữa những người xa lạ, như bài U Cư nói về tâm lý căng thẳng, phải
tập nuôi cái vụng dại (vờ vụng dại), giữ ý, e ngại người, đề phòng bị lộ thân
thế:
Tha hương dưỡng chuyết sơ phòng tục Xa quê, nuôi dại đề phòng tục,
Loạn thế toàn sinh cửu uý nhân… Thời loạn sống còn, e ngại
người…
Bài Bất Mị viết về đời sống trốn tránh
nghèo khó một mình có quá nhiều đau khổ. Thi sĩ nghe tiếng chầy đập vải huỳnh
huỵch nặng nề vẳng lên trong đêm khuya, hiện thực như tiếng chân của cái lạnh,
nó thật quá, từng bước từng bước tiến về gần người đói rét:
Bất mị thính hàn canh Mất ngủ nghe lạnh
trống canh Hàn canh bất khẳng tận Lạnh hoài chẳng hết trống canh chẳng tàn Quan
san dẫn mộng trường Quan
san dẫn mộng ngút ngàn Chiêm chử thôi hàn cận… Tiếng chấy giục lạnh, lạnh càng gần
thêm.
Nỗi niềm
đau khổ như sâu bọ, ẩn nấp trong góc sâu kín, nay ùa ra đầy đàn, bò lổm ngổm
trong bếp nghèo hoang lạnh, nào giun, nào dế, nào ếch, nào nhái:
Phế táo tụ hà ma Bếp
vắng ếch nhái họp đêm Thâm đường xuất khâu dận Góc sâu giun dế bò lên
nhà ngoài…
Cùng với nỗi đau tiếc nuối nước
non nhà Lê vừa mất trong bài Thu Dạ II:
Thiên
lý giang sơn tần trướng vọng Ngàn dậm giang sơn hoài tưởng nhớ Tứ
thời yên cảnh độc trầm ngâm Bốn
mùa sương khói ngậm ngùi đau.
Uất hận đầy lòng, thi nhân muốn
theo cách Khuất Nguyên “Hỏi trời” cho ra nhẽ. (Bất Mị). Nhưng tội nghiệp thay,
làm gì có ông trời nào mà hỏi! Nguyễn Du hiểu điều đó rõ ràng, chắc chắn như một
khoa học gia hiện đại, đưa mắt nhìn thẳng lên trời dõng dạc:
Thiên cao hà xứ vấn?
Trời cao thăm thẳm hỏi nơi chốn nào?
Nguyễn Du bỏ núi sâu ra sống
giang hồ một mình trên sông nước, bãi bờ lau sậy, dưới một mái tranh, hay trên
chiếc thuyền nan nhỏ bé manh động dễ ẩn nấp, như Nguyễn Trãi xưa. Nhưng Nguyễn
Trãi viết nhiều thơ, bầy tỏ nhiều cảm xúc, về những đêm đậu thuyền cửa biển. Còn
Nguyễn Du trái lại, không biết vô tình hay hữu ý, không viết gì về những xúc động
thi sĩ với phong cảnh và đời sống sông hồ, như muốn dấu đi, làm mờ nhạt đời sống
này đi, đến nỗi người đời gần như không biết đến, không để ý tới (vì an ninh chăng?). Tuy nhiên chỉ với
vài câu thơ nho nhỏ mô tả tâm sự u uất trong hoàn cảnh luân lạc, thi tài vẫn làm
người đọc xúc động thâm sâu. Bài Mạn Hứng:
Lữ
thực giang tân hựu hải tân… Bến sông, bãi biển mãi ăn nhờ…
Rồi
Xuân Dạ:
Giang
hồ bệnh đáo kinh thời cữu Giang hồ bệnh ám dây dưa mãi Phong vũ
xuân tuỳ nhất dạ thâm… Mưa gió theo xuân xuyên thấu đêm…
Trong khi đó Nguyễn Nể từ khi binh biến không đựơc tin em,
viết Hoài Tố Như
đệ:
Tố Như hà xứ trú? Tố Như em
nơi đâu?
Linh lạc tối kham ai… Luân lạc, ôi
thương đau.
Thế rồi Nguyễn Du về Thăng Long thăm anh cho gia đình bớt
lo lắng, nhưng ông không ở lại với anh mà ra ở nhà trọ (bài Tiểu Dẫn Long Thành
Cầm giả ca), có thể vì lúc đó Nguyễn Nể sắp phải đi sứ cho Tây Sơn, (Nguyễn Nể
đi sứ 2 lần: năm 1789, làm Phó sứ sang
Trung Quốc cầu phong cho vua Quang Trung, và năm1795 Chánh sứ sang dự lễ vua
Càn Long nhường ngôi cho con là vua Gia Khánh, mỗi chuyến dài khoảng một năm),
trong một bài thơ làm trên đường đi sứ, (có thể là lần thứ 2), Nguyễn Nễ viết về
em trai, có ghi chú: “em tôi đang ở Quỳnh Côi” cũng như trong bài Ký Đồng Hoài Đệ
Thanh Hiên Tố Như cũng có nhắc tới chuyện
này, khi mơ về Quỳnh Côi nơi em đang ở:
Mộng
hồn dạ dạ hướng Quỳnh Châu (Giấc mộng Quỳnh Châu, đêm vẫn mơ).
Luân
lạc giang hồ:
Nhưng dù
đã gập lại anh Nể và chắc được anh ít nhiều lo sinh kế cho, Nguyễn Du vẫn tiếp
tục đời sống giang hồ, vì thế chúng tôi nghĩ rằng lúc này ông chưa có vợ. Có thể
vì sống giang hồ dễ kiếm ăn, dễ tránh tai mắt Tây Sơn, dễ liên lạc với anh em bạn
bè cùng chí hướng. Thực vậy, Nguyễn Du gập lại được Nguyễn Đại Lang, một người
thân xưa (không rõ là ai, dấu tên thật: Đại Lang = “anh lớn”). Thi sĩ viết hai
bài thơ tình cảm sâu nặng tuyệt vời về những lần anh Nguyễn tới thăm và những
lưu luyến khi anh từ giã.
Bài thứ
nhất Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang (Điều Còn Lại Sau Khi Anh Nguyễn Từ Giã) phác
hoạ vài nét chấm phá về buổi gập lại anh Nguyễn nơi rừng liễu: Uống rượu, tâm sự
tới khuya. Vậy chắc hai người phải thân thiết với nhau lắm, cho nên vừa gập nhau
là quấn quýt chuyện trò cả đêm. Hơn nữa còn dám thổ lộ điều quốc cấm “nam nhi
tu đối kiếm”: đau đớn vì thua trận, phải chịu Tây Sơn khống chế:
…Khuynh tận ly bôi thoại dạ thâm Chén
biệt cạn đêm tâm sự đầy
Loạn thế nam nhi
tu đối kiếm… Thời loạn
thân trai nhìn kiếm thẹn
Đó chính là Nguyễn
Du nhận trách nhiệm của một vị quan võ, hổ thẹn cho mình và cho cả quân đội triều
Lê, chưa đánh đã thua trận Đống Đa. Để Thăng Long bay mất ngay trước mũi, nhanh
như một tiếng sét! Đưa tới việc nhà Lê sụp đổ, và thi sĩ lo việc nước. Tâm sự phù Lê vào thời
Tây Sơn này, ăn sâu trong lòng thi sĩ, như kim trong bọc, dấu không nổi, tự nó
chui ra trong thơ. Thi sĩ phải viết thêm hai ý “bằng hữu” và “Cao sơn lưu thuỷ”
(tiếng đàn tri kỷ của đôi Bá Nha, Tử Kỳ) quy Nguyễn Đại Lang vào loại “bạn”, để
che đậy cho mình và những “anh Nguyễn” ruột thịt của mình, khỏi bị nghi là kẻ
chống đối nhà cầm quyền Tây Sơn:
Cao sơn lưu thuỷ vô nhân thức… Non cao nước chảy không người
hiểu
Tha hương bằng hữu
trọng phân tâm Quê người bạn hữu xót
chia tay.
Vì vậy trong bài thơ này,
“anh Nguyễn” được viết dưới dang một người tượng trưng cho một số bạn hữu, anh
em Nguyễn Du, mang lý tưởng “cần vương” tuy không còn tin tưởng gì ở vua Lê,
thờ chúa Trịnh nhưng Trịnh cũng mất rồi, muốn phản Tây Sơn nhưng dân chúng đã
quá ngán chiến tranh... Khi anh Nguyễn từ biệt, biết bao thương nhớ: Chỉ còn
lại vầng trăng đêm chiếu rọi hai tấm lòng người phía “nam sông” (là một “địa
danh” được viết ra trong suốt thời kỳ này):
Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt Còn mảnh trăng khuya vòi vọi
chiếu
Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm Tấm lòng hai kẻ bến
nam này
Bài thứ hai là Biệt Nguyễn Đại Lang gồm ba khổ thơ về ba lần tiễn anh Nguyễn trên
sông, trong tình thế mỗi ngày mỗi nguy hiểm hơn. Ngay từ cái tên, chữ “Biệt” đã có ý vĩnh biệt, đi biệt, đi không
bao giờ trở lại. Ý thơ toàn bài sâu lắng, đậm đặc cảm xúc:
Khổ1. Lần tiễn đưa thứ 1:
Ngã thả phù giang khứ Tôi
theo sông lênh đênh Tống quân
quy cố khâu… Tiễn
anh về núi cũ…
Câu 1: Ngã thả phù giang khứ: Chỉ
một câu thơ 5 chữ đặc biệt này, với hai
chữ “thả” và “phù” tuyệt chiêu (thả= buông thả, buông trôi; phù= bồng bềnh, trôi nổi; phù giang khứ = phù
giang + phù khứ), thi hào nói được hết hoàn cảnh và tâm trạng của mình, của người
phiêu bạt trên sông không bến đỗ: Tôi
buông theo dòng sông lênh đênh mà đi, chuyến đi, hay đời tôi, lênh đênh vô định.
Câu 2: Tiễn anh về núi cũ. Núi cũ (cố khâu)
hai chữ thật nặng tình, chỉ ngọn núi
thân yêu cũ của cả hai người (phải chăng là Hồng Lĩnh?).
Bốn câu sau: lúc này Tây Sơn vừa
phá xong quân Thanh, nước nhà mới tạm yên: trên bờ, người có nơi trú ẩn, dưới
nước, cá được tung tăng bơi lội, hươu nai nhẩn nha đi lại trong núi sâu:
Càn
khôn dư thảo ốc Đất trời còn mái tranh Phong vũ túc cô chu Gió mưa ẩn thuyền lá Thu dạ ngư long trập Đêm
thu cá lặn bơi. Thâm
sơn mi lộc du Núi
sâu nai thong thả
Chàng
quan võ trẻ còn quá non nớt, thiếu hiểu biết về tình hình chính trị, quân sự, nhất
là về sức mạnh của Tây Sơn lúc đó, nên nức lòng hy vọng gập lại anh Nguyễn ở Trung Châu, nơi giữa nước (nếu chiếm lại được Thăng Long!):
Hưu kỳ bất thậm viễn Ngày vui chẳng lâu nữa Tương kiến tại Trung Châu Trung Châu ta gập
ta.
Khổ 2: Lần đưa tiễn thứ 2:
Tống
quân quy cố khâu Tiễn anh về núi cũ Ngã diệc
phù giang hán… Tôi, lãng tử nước mây…
(hán= hán tử, là một con dân yêu nước)
Câu 1: Lập
lại câu 2 của khổ 1, “tiễn anh về núi cũ” thắm đậm tình thân thiết. Câu
2: Còn tôi là kẻ lang thang trên
dòng sông vô định
Tình cảm giữa
hai người rất dung dị mà sâu đậm, được lột tả bằng hai câu:
Thiên lý bất
tương văn Ngàn dậm
không được thấy Nhất tâm vị thường gián Một
lòng không hề thay
Vào
giai đoạn thứ 2 này, nhà Tây Sơn sau những bận rộn về đại thắng Đống Đa 1789,
đã có thời gian tổ chức bộ máy chính trị, quân sự. Việc đàn áp những người chống
đối có hiệu quả rõ rệt, buộc họ phải chạy dạt đi, tan tác như bầy chim vỡ đàn
bay tứ tán:
Dạ hắc sài hổ kiêu Đêm tối hổ gầm thét Nguyệt
minh hồng nhạn tán Trăng
sáng nhạn xé bầy*
Cho nên:
Lưỡng địa
các tương vương Hai nơi cùng mong nhớ, Phù vân ưng
bất đoạn Đừng ngừng trôi, hỡi mây!
Tứ thơ mới mẻ lạ thường. Do quá
thương nhớ, lo sợ anh Nguyễn gập nguy biến, và chỉ có mây là nguồn lưu chuyển
duy nhất, hai người cùng nhìn được để thương nhớ nhau, nên thi sĩ hết lòng mong
cầu việc dĩ nhiên nhất trên đời “Xin mây
đừng ngừng trôi”, để có cảm tưởng anh Nguyễn đang yên ổn. Tình cảm giữa anh
em bạn bè của cổ nhân thường rất đằm thắm sâu nặng, hơn cả tình yêu.
Khổ 3: Sau mỗi lần gập nhau, anh Nguyễn
đều trở về “núi cũ”. Lần tiễn đưa quan trọng trong khổ 3 này viết gọn hơn: “quân
quy” (“anh về”, phải chăng là về quê hương?). Đây là thời điểm nguy hiểm nhất
của việc cần vương: Giữa thời Tây Sơn hưng thịnh, dân hai nước Việt và Tầu đều quá
ngán sợ chiến tranh, chỉ còn một số cựu thần nhà Lê muốn chống Tây Sơn, để “
rửa hận nam nhi”. Nguyễn Du khi viết bài này (vài năm sau 1789) đã hiểu nổi dậy
là vô ích, đã chịu thua, đã biết việc cần vương tới bước đường cùng. Lời thơ
nói tới “sống chết”, “còn mất”, chỉ còn nghĩa khí, tình thâm đọng lại, chia sẻ
cùng nhau:
Quân quy ngã diệc khứ Anh
về, tôi cũng đi
Các tại loạn ly trung Giữa
cõi đời loạn ly
Sinh tử giao tình tại Sống chết tình ở lại Tồn vong khổ tiết đồng Được mất
nghĩa cùng chia
Cảnh đưa
tiễn cuối cùng thật bi hùng, đơn sơ cô đọng như cổ thi, đi tới cái đơn giản tuyệt
vời của mỹ cảm: “ Tấm cửa liếp mở ra nguyên một đêm trăng, đưa người nón rách ra
đi trong gió thu”:
Sài môn khai dạ nguyệt Cửa mở đêm trăng sáng Tàn lạp tẩu thu phong Gió thu nón rách đi
Phần kết buồn thăm thẳm: Cả
bầu trời mịt mù u ám! Anh Nguyễn đã “một đi”. Có bao giờ trở lại?:
Thiên lý bất tương kiến Ngàn
dậm, không thấy nữa Phù vân mê thái không Bầu trời mờ mây che.
Vậy thì anh Nguyễn là ai?
Tình thương giữa anh Nguyễn và thi nhân qủa là rất sâu xa thắm thiết, thắt
chặt trong hai bài thơ. Nhìn kỹ lại, Nguyễn Đại Lang có những tính chất tương
tự như Nguyễn Quýnh, người anh bạc mệnh của Nguyễn Du. Thực
vậy, theo Nguyễn gia thế phả:
Nguyễn
Quýnh (1759-1791), còn có tên là Luyện, thọ ấm Mai Nhạc Bá, đỗ tú tài năm 1779,
năm 1787 giữ chức quản trấn Tả Đội triều Lê.( Nguyễn Nghiễm có nhiều vợ, trong
đó bà ba Trần Thị Tần, quê Hoa Thiều, Hương
Mạc, Từ Sơn Kinh Bắc sinh ra Nguyễn Du.
Bà tư Nguyễn Thị Xuyên, quê Hoàng Mai, Yên Dũng, Kinh Bắc sinh ra Nguyễn Quýnh.
Hai bà cùng gốc Kinh Bắc, bà mẹ Nguyễn Du lại mất sớm, nên chắc mấy anh em gần
nhau hơn). Hai năm sau khi nhà Lê mất, 1791,
Nguyễn Quýnh, cùng nghĩa sĩ Nghệ Tĩnh nổi dậy chốmg Tây Sơn. Bị hiệp trấn Nguyễn
Quang Dũng vây ráp phóng hoả đốt làng Tiên Điền, Nguyễn Quýnh bị bắt, không chịu
khuất phục nên bị giết (2). Tiên Điền bị đôt sạch để trừng phạt. Nay người làng
còn thuật chuyện quân Tây Sơn lấy mỡ lợn tưới lên dinh cơ họ Nguyễn để đốt cho
hết sạch.
Trong bài thơ Bát Muộn, Nguyễn
Du kể lại việc nhận được thư báo tin quê. Thi sĩ đọc tin thư âm thầm dưới đèn, khóc
“thiên lý lệ”: “…Chinh chiến máu chảy ô uế
vẩn đục cả đất trời. Quê hương binh lửa”, nói cách khác, đó là: “Nổi loạn tại Tiên Điền, chiến tranh, đốt phá,
máu, người chết”, nghĩa là: “Cuộc nổi
dậy đã bị đập tan, Nguyễn Quýnh bị bắt, bị giết tại Tiên Điền”. Tin đó được gửi thẳng tới thi nhân, chứng tỏ
Nguyễn Du có liên lạc mật thiết với nhóm nổi dậy Nguyễn Quýnh:
Chỉ uế càn khôn huyết chiến
dư …Trời đất đục ngầu huyết chiến loang
Tang tử
binh điền thiên lý lệ Binh lửa quê hương ngàn
dậm lệ
Thân
bằng đăng hạ sổ hàng thư Dưới đèn thân thích mấy thư trang…
Hai năm sau, 1793, Nguyễn Nể đưa tiền cho Nguyễn Du và Nguyễn Ức về tu sửa
Tiên Điền bị tàn phá. Có thêm cháu Nguyễn Hành(con Nguyễn Điều) đang ở Thanh
Chương, Hà Tĩnh tới giúp. Xa quê nhà, luân lạc mỗi người một nơi đã lâu, lần
đầu tiên sau chiến tranh được trở về quê, ba chú cháu đã vô cùng đau đớn khi
thấy cảnh nhà cửa đổ nát, dinh cơ tan hoang, ngổn ngang bãi chiến trường năm trước,
bao gồm vết tích nơi hành hình Nguyễn Qúynh. Công việc phải làm là tụ họp dân
phu tu sửa toàn thể gia trang từ ngôi từ đường, đến viết hoành phi câu đối thờ,
xây lại nhà cửa sơ sài cho con cháu ở, xửa chữa lại Cầu Tiên, chùa Trường Ninh…và
chắc chắn còn âm thầm đắp điếm lại mộ
phần cho Nguyễn Quýnh. Thật ra, khi
nổi dậy bị bắt, bị hành hình nơi đây, Nguyễn Quýnh làm gì có mồ mả, hoạ chăng
chỉ được “vùi nông một nấm”. Mà ai cũng biết, đối với dân ta xưa, mồ mả là việc
hệ trọng nhất đối với người thân đã mất. Bổn phận người còn lại là phải làm cho
được “mồ yên mả đẹp” cho họ. Và khi cải mộ là lúc xúc động vô cùng cho anh em
gia đình nhất là tất cả không được có mặt khi Nguyễn Quýnh mất.
Giữa những mất mát, đau đớn, việc tu sửa dinh cơ cổ xưa của gia tộc bao đời
để lại, chú cháu Nguyễn Du dù cố gắng bao nhiêu cũng chỉ là làm giả cái cũ mà
thôi. Đến khi xong việc, Nguyễn Du vào Phú Xuân thăm Nguyễn Nể, cũng là để báo anh
rõ tình hình, rồi quay về thẳng Quỳnh Côi vào cuối năm 1793. Nguyễn Nể có thơ Tống
Tố Như Đệ Tự Phú Xuân Quy Bắc Hoàn, nói rõ việc này.
Đường về theo hướng Nam Bắc, Nguyễn Du qua Thanh Hoá tới đèo Tam
Điệp, tức Ba Dội, thi sĩ đứng trên đỉnh đèo quay
lại nhìn về phía nam, là hướng Tiên Điền. Tình cảm đau xót nhớ tiếc quê cũ
người xưa còn đang quá sâu đậm, chưa hề nguôi ngoai trong bài thơ rất cô đọng Tái
Du Tam Điệp Sơn (Lại qua Đèo Ba Dội):
Hành
nhân hồi khán xứ Quay
nhìn về quê cũ.
Vô
ná, cố hương sầu Mất rồi, sầu
ngất ngây.
Ôi biết bao nhiêu là mất mát chỉ trong hai chữ “vô ná” (vô= không còn, ná =
cái đó. = là cả quá khứ , cả quê hương cũ người cũ… mất hết cả rồi!)
Học giả Đào Duy Anh trong cuốn Thơ Chữ Hán Nguyễn Du (1983), thường có ý giữ
thứ tự các bài thơ như sách cũ, đã in bài Biệt Nguyễn Đại Lang (trang 68) ngay
trước bài thơ viết trên đường trở về Quỳnh Côi “Tái Du
Tam Điệp Sơn”(3). Hy vọng thứ tự đó đúng. Như vậy, rất có thể Nguyễn Du viết bài Biệt Nguyễn Đại Lang
trước khi rời Tiên Điền ra về, thậm chí là ngay
trong thời gian đang tu sửa Tiên Điền, đắp mộ Nguyễn Quýnh, là lúc xúc động
về cái chết của Nguyễn Quýnh dâng cao nhất. Phải chăng vì Nguyễn Đại Lang chính
là Nguyễn Quýnh, nên bài thơ tạo cảm xúc mãnh liệt đến thế? (Trong cuốn Đọc Và
Dịch Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du, tôi đã cho rằng bài Biệt Nguyễn Đại Lang được viết
vào thời kỳ Hồng Lĩnh cùng với những bài thơ về gia đình: Giang Đình Hữu Cảm,
nhớ Cha đã mất; Ký Mộng, nhớ vợ đã mất; Ức Gia Huynh, nhớ anh Nguyễn Nể. Điều này
chắc là sai, xin xửa lại).
Ngoài ra, giả thuyết “Nguyễn Đại
Lang là một người khác Nguyễn Quýnh”, tình và lý không đứng vững: Nguyễn Quýnh
là anh cùng cha khác mẹ của thi hào, anh em một nhà sống chung từ nhỏ, có chung
một mối hận, một nỗi mất mát, một cõi lòng, nhất là anh chết vì lý tưởng chung,
bi thương, anh dũng như thế, không ai có thể thay thế được anh. Làm sao một thi
sĩ tột bực bén nhậy, một tâm hồn chất chứa đầy tình cảm thâm sâu, một lòng
thương bao la như Nguyễn Du mà ta biết, vào lúc đắp mộ cho anh trên quê hương yêu
quý tang thương tan tành từng mảnh vụn, có thể không viết bài Điếu Anh mà viết
về người khác cho được?
Hơn nữa, nếu bài thơ viết về một nhân vật họ Nguyễn khác không phải là Nguyễn
Quýnh, (không nổi dậy, không bị giết ở Tiên Điền) thì việc gì phải dấu dưới tên
Đại Lang? Trong khi với Nguyễn Quýnh, ngay từ ngày đầu tiên anh em được gập lại
nhau giữa thời “ly loạn” Tây Sơn, giữa nơi đất khách ẩn trốn, trong bài Lưu
Biệt Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Du đã không thể gọi anh bằng tên thật, vì phải che
dấu tông tích cả hai anh em, (“Hai
cậu chiêu con cố tể tướng triều Lê” âm mưu phù Lê, phản Tây Sơn. Nếu một người
bị lộ thì cả hai cùng bị). Vì vậy dùng một cái tên vô thưởng vô phạt như
“Đại Lang” tránh tên thật là điều dễ hiểu. Tới bài thơ thứ hai, thi hào vẫn gọi
anh là “Đại Lang” để kỷ niệm sâu sắc quãng đời cùng nhau chung sức, chung lý
tưởng phù Lê (Cho dù nhà Lê đã vữa nát từ lâu.). Về phần mình , Nguyễn Du vẫn
không hề tỏ lộ mình thuộc tổ chức của Nguyễn Quýnh, là điều có thể bị Tây Sơn
bắt giam dễ dàng, bất cứ lúc nào.
Vì những lý do trên, chúng tôi cho rằng Nguyễn Đại Lang chính là
Nguyễn Quýnh, bài thơ Biệt Nguyễn Đại Lang chính là bài thơ Điếu anh Nguyễn Quýnh. Mà cũng là bài
thơ điếu cuộc đời giang hồ trả nợ nam
nhi lý tưởng của chính Nguyễn Du.
Nguyễn Hành, cùng tu sửa Tiên Điền và đắp mộ chú Quýnh với chú Du, chú Ức,
cũng có một bài thơ Viếng chú Nguyễn
Quýnh:
Đại đạo thành nhân mỗi bất đồng Đạo lớn nên người thường chẳng đồng
Lâm nguy khẳng khái nghĩa duy ông Lúc nguy, nghĩa khí chỉ mình ông
Nhất thân độc nhiệm cương thường trọng Một mình gánh lấy cương thường
nặng
Vạn cổ do văn tráng liệt phong Muôn thuở vang rền tiếng liệt trung
Cổ thỉ kim triều hà truật bức Nhìn lại chuyện xưa đau xót quá
Hồi huy đương nhật thâm thung dung Nhớ sao ngày trước dáng ung dung
Thống tâm hối nại kinh từ miếu Đau lòng chẳng nỡ đi ngang miếu
Độc lạp lưu thành lệ mãn không . Sáp nến chảy thành lệ ngập không
(Bài này
chúng tôi chỉ có bản phiên âm, thiếu bản chữ Hán, nên nhiều chữ có thể sai, quý
vị độc giả nào có bản chính, xin gửi lại
cho chúng tôi, vô cùng đa tạ).
Bây giờ chúng ta có thể nhìn lại
cuộc đời Nguyễn Du suốt mười năm gió bụi (từ 1786 tới 1796)
với chi tiết “Nguyễn
đaị Lang” là Nguyễn Quýnh
anh thứ tư của Nguyễn Du, người cầm đầu nhóm Phù Lê vùng Nghệ Tĩnh:
Năm 1786,
Nguyễn Du rời Thăng Long, lên Thái Nguyên giữ chức chức quan võ Chánh thủ hiệu
quân hùng hậu hiệu. Tháng giêng năm 1789 vua Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh,
Nguyễn Du không theo kịp vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tầu, một mình chạy trốn xa
Thăng Long vì sợ Tây Sơn truy đuổi. Đang ẩn náu trong chốn giang hồ, luân lạc một
mình, bơ vơ xa gia đình, e sợ người lạ, bỗng gập lại được anh Quýnh (anh
khác mẹ). Đó là gập lại được gia
đình lần đầu tiên. Nguyễn Du chắc
chắn rất vui mừng vì từ nay không còn đơn độc nữa. Ta thấy rõ sự thân mật đặc
biệt của hai người trong bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang: Vừa gập nhau là nói chuyện
tâm sự thâu canh, với những ý tưởng sâu xa tận cùng lòng dạ: “nhìn kiếm thẹn”
(Trong khi việc hội ngộ anh ruột cùng mẹ thân yêu nhất là Nguyễn Nể cũng gần thời
gian này lại qua đi không có vết tích không có một bài thơ nào cả!). Từ nay có được người thân hoàn toàn tin
cậy, thêm nữa thấy anh Quýnh đang kêu gọi nghĩa sĩ tụ họp chống Tây Sơn
đúng như lý tưởng của mình, chắc chắn Nguyễn Du đồng lòng nhất trí với anh. Sau
đó, Nguyễn Quýnh thường đến bàn bạc mưu tính với em, coi em như một người mưu
sĩ ở ẩn hay một chi nhánh nghĩa quân để phân tán, che dấu lực lượng. Ta thấy
Nguyễn Quýnh rất thương yêu Nguyễn Du, luôn luôn bảo vệ em, tránh mọi nguy hiểm
cho em, như chỉ tự mình đi qua cạm bẫy, lưới giăng của Tây Sơn tới nơi em trú ẩn,
mà không cho Nguyễn Du về Tiên Điền với mình, dù rất mong muốn.
Trong bài thơ Tiễn Nguyễn Sĩ Hữu
Nam Quy, được viết trong thời kỳ gió bụi, sau câu thơ thứ 3, khen ngợi bạn về Hồng
Lĩnh, thi sĩ than rằng mình chẳng làm nên việc gì, mà lại không về nhà. Đào Duy
Anh giảng: “Nguyễn Du nói mình chưa thực
hiện được hoài bão nên chưa có thể về quê Hồng Lĩnh để Nguyễn Sĩ Hữu về trước”. ((4)
Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ Hồng
Lĩnh có người về đứng chủ Bạc đầu vô lại bất hoàn gia Bạc đầu vô lại chẳng về
nhà…
Đúng vậy,
Nguyễn Du lúc này còn trẻ, mới nổi tiếng về văn chương thơ phú, nhưng còn non nớt
về chính trị quân sự. Anh Nguyễn Nể cùng mẹ, khi nhớ thương em luân lạc một
mình trong bài thơ Hoài Tố Như Đệ, cũng cho
rằng thi sĩ tài cao nhưng chưa có trải nhiệm sống:
Tự hữu lăng vân chí Chí cao mây xanh thắm.
Hoàn vô thiệp thế tài Tài chưa trải nghiệm sâu
1790 Nguyễn Nể đi sứ Tầu lần thứ nhất cho Tây Sơn trở về.
Nguyễn Du được tin thường quay lại Bắc Thành (Thăng Long) đi lại thăm anh, tuy
vẫn ở nhà trọ (“Dư thiếu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ điếm”=hồi trẻ
tôi tới kinh thành thăm anh, ngủ trọ nơi quán bên hồ Giám (bài Tiểu Dẫn, Long
Thành Cầm Giả Ca)), chắc chắn là được anh bao bọc, che chở, nhưng vẫn sống cuộc
đời thanh niên hoạt động ngoài vòng cương toả. Vì vậy chúng tôi nghĩ rằng ông
chưa có vợ. Lúc này thi sĩ có được những kỳ ngộ như gập Nàng Cầm, đệ nhất danh
cầm ở Long Thành và cả nữ sĩ Hồ Xuân Hương ở Nghi Tàm, Hồ Tây.
Năm 1791,
Nguyễn Quýnh trước khi khởi nghĩa chống Tây Sơn ở Tiên Điền, tới bàn tinh và từ
biệt Nguyễn Du. Việc thất bại, Nguyễn Quýnh bị giết, Tiên Điền bị triệt hạ.
Nguyễn Du vì có liên hệ với Nguyễn Quýnh, đang sợ Tây Sơn truy bắt. Nguyễn
Nể nhân quen với Đoàn Nguyên Tuấn nên thu xếp cho Nguyễn Du lấy em gái bạn, về ở
rể ở Quỳnh Côi Thái Bình quê vợ, nương nhờ anh vợ đang làm quan cho Tây Sơn.
Hai năm
sau, 1793, Nguyễn Nể trước khi vào Phú Xuân làm việc tại viện Cơ Mật, và sửa soạn
đi sứ Tầu lần thứ 2 (1795, 1796), đưa tiền cho Nguyễn Du, Nguyễn Ức và Nguyễn
Hành về Tiên Điền tu sửa quê hương bị tàn phá và xây đắp mộ chí cho Nguyễn
Quýnh.
Nguyễn Du
viết bài thơ bất hủ Biệt Nguyễn Đại Lang khoảng thời gian này. Thi
sĩ đã thu góp, tinh giản những lần Nguyễn Quýnh tới thăm bàn việc nước, đuc kết
vào ba lần đưa tiễn tiêu biểu. Đây là một bài thơ trác tuyệt đầy tình cảm và
nghĩa khí, giản dị mà bi hùng, đơn sơ mà thăm thẳm xuyên qua suốt phần đời phù Lê chống Tây Sơn của cả hai anh em Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du.
Năm 1795 bà vợ họ Đoàn của ông sinh
được con trai Nguyễn Tứ, rồi bị bệnh mất. 1796 Nguyễn Du rời Quỳnh Côi, dự tính
đi theo chúa Nguyễn, việc bại lộ, bị quận công Nguyễn Thận bắt giam, việc chống đối Tây Sơn của Nguyễn Du đã rõ ràng,
không cần che dấu nữa. Thi hào viết Mi Trung Mạn Hứng (Hứng trong tù) dùng
điển Chung tử gẩy Nam âm, và Trang Tử thơ Việt ngâm, tỏ rõ ý tưởng không
bao giờ quên nước cũ, triều Lê xưa, và cõi lòng vô cùng thống khổ vì thương nước thương nhà:
Tứ hải phong trần gia
quốc lệ Bốn
bể bụi mù thương khóc nước
Thập tuần lao ngục tử sinh tâm Mười tuần tù ngục chết nguồn tâm
Cuối năm 1796, Nguyễn Nể đi sứ
cho Tây Sơn lần 2 về, tới xin bạn đồng liêu, quận công Thận, vì yêu mến tài thơ
phú của Nguyên Du, đã thả thi hào ra sau mười tuần tù ngục (khoảng 100 ngày).
Không sợ bị Tây Sơn truy đuổi nữa,
thi hào về ở hẳn Hồng Sơn. Tại đây, Nguyễn
Du viết Tạp Thi I. Đây là lần
duy nhất, người cựu thần nhà Lê nhận mình là tráng sĩ, một tráng sĩ thua trận, trắng tay, đau khổ ngút trời:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên Trắng đầu tráng
sĩ khổ trông trời
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên Việc
nước việc nhà hỏng cả đôi.
Đúng ra trong suốt thời gian gió bụi, Nguyễn Du đã
sống giang hồ lẩn trốn cần vương với tấm
lòng tráng sĩ. Thi hào thực sự tham
dự công cuộc phù Lê. Đến lúc mọi việc lỡ cả, mới viết chữ tráng sĩ, đúng vai trò lý tưởng của
mình một lần, rồi không bao giờ nhắc lại nữa.
Sau này Nguyễn Hành viết bài Thướng Thúc Phụ Đông
Các Học Sĩ (Kính gửi chú Đông Các học sĩ) có nói tới phần đời giang hồ phù Lê
này của Nguyễn Du:
Giang hồ, long miếu nhiêu song đạo (Giang hồ, đền miếu hai đường
đủ).
Giang hồ (tham dự cần vương chống Tây Sơn) và long miếu (=triều vua= làm quan, cho nhà Nguyễn) là
hai điều đều đầy đủ (nhiêu=đầy đủ). Ta biết Nguyễn Du làm quan 18 năm đầy đủ,
thì giang hồ chống đối cũng tương đương đầy đủ không kém.
PTN
Thư Mục
(1) Đào Duy Anh, Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, NXB
Văn Hoc, HN 1988, tr 373 chú giải về Sơn Cư Mạn Hứng
(2) Đinh Sỹ Hồng, Họ Nguyễn Tiên Điền Và Khu Di Tích Nguyễn Du, Ban Quản Lý
Di Tích Nguyễn Du, NXB Nghệ An, 2005, trang 39 về người bắt và giết Nguyễn
Quýnh.
(3) Đào Duy Anh, sdd trang 68, Biệt Nguyễn Đại
Lang.trước Tái Du Tam Điệp Sơn
(4) Đào Duy Anh, sdd trang 375 dòng 15,Nguyễn
Du cho biết vì chưa thực hiện được hoài bão nên chưa thể về Hồng Lĩnh.
Thơ Việt dịch trong bài này trích trong cuốn Đọc
Và Dịch Thơ Chữ Hán Của Nguyễn Du, Thảo Nguyên tức Phạm Thảo Nguyên, 2007,
2009.
Phụ Lục
1/ LƯU BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG
留 別 阮 大 郎
西 風 歸 袖 柳 高 林
傾 盡 離 杯 話 夜 深
亂 世 男 兒 羞 對 劍
他 鄉 朋 友 重 分 襟
高 山 流 水 無 人 識
海 角 天 涯 何 處 尋
留 取 江 南 一 片 月
夜 來 常 照 兩 人 心
Phiên âm: Thơ dịch:
Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang Dư Vị Chia Tay Anh Nguyễn
Tây phong quy tụ liễu cao lâm Rừng dương tay
áo gió lùa bay Khuynh tận ly bôi thoại dạ thâm Chén biệt cạn đêm tâm sự đầy
Loạn thế nam nhi tu đối kiếm Đời loạn thân trai nhìn kiếm thẹn
Tha hương bằng
hữu trọng phân khâm Quê người bầu bạn xót chia tay
Cao sơn
lưu thủy vô nhân thức Non cao nước chẩy không người
hiểu Hải giác thiên nhai hà xứ tầm? Nào biết đâu tìm chốn nước mây?
Lưu thủ giang nam\nhất phiến nguyệt Còn mảnh trăng đêm vòi vọi chiếu Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm Tấm lòng đôi bạn bến nam này.
2/ 別 阮 大 郎
一
我 且 浮 江 去 送 君 歸 故 丘
乾 坤 餘 草 屋 風 雨 宿 孤 丹
秋 夜 魚 龍 蟄 深 山 麋 鹿 遊
休 期 不 甚 遠 相 見 在 中 洲
二
送 君 歸 故 丘 我 亦 浮 江 漢
千 里 不 相 聞 一 心 未 嘗 間
夜 黑 豺 虎 驕 月 明 鴻 鴈 散
兩 地 各 相 望 浮 雲 應 不 斷
三
君 歸 我 亦 去 各 在 亂 離 中
生 死 交 情 在 存 亡 苦 節 同
柴 門 開 夜 月 殘 笠 走 秋 風
千 里 不 相 見
浮 雲 迷 太 空
Phiên âm: Biệt Nguyễn Đại
Lang Thơ dịch: Biệt Anh Nguyễn
I I
Ngã thả phù giang khứ
Tôi theo sông lênh đênh
Tống
quân quy cố khâu Tiễn anh về núi cũ
Càn khôn dư thảo ốc Đất trời còn mái tranh
Phong vũ túc cô chu Gió mưa ẩn thuyền lá
Thu dạ ngư long trập Đêm thu cá lặn bơi
Thâm sơn mi lộc du Núi sâu nai thong thả
Hưu kỳ bất thậm viễn Trung châu ta gập ta
Tương kiến tại trung châu* Ngày
ấy không xa nữa
II II
Tống quân quy cố khâu Tiễn anh về núi cũ
Ngã diệc phù giang hán**
Tôi, lãng tử nước
mây
Thiên lý bất tương văn Ngàn dậm không tin tức
Nhất tâm vị thường gián Một lòng chưa hề thay
Dạ hắc sài hổ kiêu Đêm tối hổ gầm thét
Nguyệt minh hồng nhạn tán Trăng
sáng nhạn xẻ bầy
Lưỡng địa các tương vương Hai nơi cùng mong nhớ
Phù vân ưng bất đoạn. Đừng
ngừng trôi, hỡi mây!
III III
Quân quy ngã diệc khứ
Anh về, tôi
cũng đi
Các tại loạn ly trung Giữa cõi đời loạn ly
Sinh tử giao tình tại Sống chết tình ở lại
Tồn vong khổ tiết đồng
Được
mất nghĩa cùng chia
Sài môn khai dạ nguyệt Mở
cửa đêm trăng sáng
Tàn lạp tẩu thu phong
Gió thu nón
rách đi
Thiên lý bất tương kiến
Ngàn dậm
không thấy nữa
Phù vân mê thái không
Bầu trời mờ
mây che.
Phạm
Thảo Nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét