THÂN NƠI PHỐ THỊ HỒN NEO CHỐN LÀNG
Đọc Buồn không đóng cửa, thơ Nguyễn Việt
Bắc
Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2016
Vũ Nho
Khác với nhiều bạn viết có thể làm
thơ, bình thơ, viết truyện ngắn hoặc đá tí chút phê bình, kiến trúc sư Nguyễn
Việt Bắc không làm bất cứ điều gì khác ngoài thơ. Anh chỉ chuyên chú làm thơ. Mà
số lượng in cũng không nhiều, có thể nói
là khá khiêm tốn. Từ năm 1993 in tập “Bờ xa”, đến nay 2016, in tập thứ sáu “ Buồn
không đóng cửa”. Nghĩa là cứ khoảng gần bốn
năm mới in một tập.
Người kiến trúc sư quê Bắc Ninh ấy
sau khi ra trường, do yêu cầu của công việc đã gắn bó với phố thị. Tuy nhiên, làng
vẫn còn lưu giữ ngôi nhà của tổ tiên làm nơi chốn đi về. Không giống với những
người “thiên quê”, rồi mất luôn “hộ khẩu”, trở thành người thành phố, nhà thơ ở
phố mà hồn vẫn neo lại chốn quê. Trong các tập thơ của anh, cái làng nông nghiệp
“ Từ xưa/ Làng chỉ nghề cấy lúa” vẫn
luôn hiện lên với bao buồn vui, băn khoăn, lo lắng. Cái việc làm thơ, thu hoạch
chữ nghĩa, anh cũng ví với việc gặt hái của làng. Và anh đem việc đó đặt tên cho một tập thơ “ Gặt chữ”!
Làng – đơn vị hành chính thiêng
liêng đó rất quan trọng trong tâm thức người Việt. Làng là quê, là nơi sinh trưởng,
là nơi gắn bó ấu thơ, là nơi bảo tồn, lưu giữ kỉ niệm, lưu giữ những kí ức thiêng
liêng. Những năm trước, làng trong thơ anh là hình ảnh đẹp đẽ, lung linh của những
năm tháng bình yên, chưa có chuyện phố lấn làng:
Nhà ta/Ta về nhà ta
Có đầm sen với cây đa đầu làng
Có em quẩy nắng dịu dàng
Mùa thơm
Nắng chín rơm vàng ngõ phơi
( trong
tập Gặt chữ)
Bây giờ, anh nhìn làng bằng tâm trạng khác và con mắt cũng
khác.
Bởi vì làng bây giờ đang trong cơn lốc của đô thị hóa, “ Bây giờ
nhan nhản công ty/ Ruộng đất cứ dần hẹp lại” , làng đang biến thành phố “ Gi gỉ gì gi cái gì cũng có”. Vẫn còn một
chút xưa, ấy là “ Khí trong veo như mưa
rào đầu hạ/ Tiếng gà ò ó o”, nhưng làng đã không còn là làng cũ:
Làng vẫn làng mà như đi lạc
Tre không còn để mà kẽo kẹt
Nhà ống liền kề
Đường lổn nhổn xỉ than bê tông
Thoang thoảng mùi phân trâu, cứt chó
Làng vẫn làng mà như đi lạc
Không còn nắng chín với mùa thơm. Cũng không thấy em quẩy nắng.
Bây giờ là hình ảnh “ sương đêm ràn rạt
bay”, là hình ảnh “ Mưa lầy lõm bõm/ Những ngôi nhà phành phạch cửa liếp/ Im lìm/
Ánh sáng đường làng nhòe nhoẹt” ( Làng). Rặng tre như là biểu tượng của làng, quây lấy làng, đem bóng mát che ngày
nóng nực giờ không còn. Hậu quả là :
Đào tre lấp ao làm nhà
Làng phơi dưới nắng như là lò nung
Dậy trước bình minh
Làng đang biến thành phố. Tiến bộ
đấy, nhưng làng đâu còn là làng nữa? Về mặt tâm linh thì khá bất an:
Phố đóng cọc xây nhà trên ruộng lúa
Vỡ long mạch làng/ làng mảnh vỡ/ của hành tinh.
Mảnh
vỡ
Mà việc nhà cửa mọc lên nhiều đó
mà không thấy sầm uất, bởi vì ai đó xây để giữ của cải, giữ tài sản. “ Là tài sản của lũ trẻ lên năm, lên một/ Là
tài sản của đứa bé nằm trong bụng mẹ” . Vậy nên:
Nhà mọc như đỗ, như vừng
Xây rồi không ở / như rừng / bỏ hoang
Bây
giờ
Và người làng, thì vẫn một nắng
hai sương, buồn rầu, lo lắng:
Những ông bố bà mẹ
Rầu rĩ
Chân trần gà ác đi trên
đương làng.
Làng
Một làng quê như thế khiến cho
người tử tế không thể vui. Lại thêm chuyện làng “ Có thanh niên đầu trọc/ và lũ gái quần đùi lông nhông”, thêm chuyện
những thanh niên có học nhưng thất nghiệp làm ruộng thì không biết, việc làm thì
không có “ Ra trường/ Nhiều đứa không xin
được việc làm/ Và/ Không chạy thóc khi mưa” ( Nghề học ở một làng). Có thể
nói là một cơn địa chấn đã xảy ra trong tâm hồn người viết. Bởi về làng mà lạc
trong làng cứ như nơi lạ, bởi tâm trạng bất an, thấp thỏm “ Một đêm ngủ ở nhà mình/ Mà như diều cứ rùng
rình/ Đứt dây” ( Năm 2014). Cái tâm trạng bao quát là buồn bực, chán nản.
Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lấy tên bài thơ cuối tập đặt tên cho cả tập “
Buồn không đóng cửa”. Có một cái gì đó như bế tắc, tuyệt vọng:
Chán phố xá
Về làng quê
Làng quê cũng chán ra đê sông Hồng
Không
đề
Ra với thiên nhiên cũng không khỏa
lấp được nỗi buồn:
Buồn không đóng cửa cài then
Ra ngồi với cỏ bông sen cũng buồn
Buồn
không đóng cửa
Những bài viết về thơ Nguyễn Việt Bắc
ở các tập trước đây, tôi cho rằng trong các tập thơ, thậm chí trong một
bài thơ, cái buồn thường đan cài với cái vui; nỗi mừng thường kèm với nỗi lo.
Nhưng tác giả thường nghiêng về nỗi lo, nghiêng về cái buồn. Có nhiều nguyên nhân,
nhưng có lẽ càng sống, càng từng trải, càng trải nghiệm những điều trông thấy
trong những ngày qua, nếu tác giả có nghiêng hẳn về tâm trạng lo lắng, buồn thương
thì cũng là sự tất nhiên. Làng quê trong anh cũng không phải là không có cái vui. Chợ quê chẳng
hạn:
Chợ quê /thứ gì cũng tươi
Người bán không làm hàng
Lời mời nào cũng dính
Bạn
về chơi
Nhưng cái đó chỉ là một nét đẹp
chìm lút trong nhiều thứ “nhom nhem” của một miền làng đang vỡ. Ở phố thị, nơi
anh thường trú cũng không khá gì hơn. Ở nhà buồn:
Em nằm viện
Anh ở nhà
Ở nhà cũng bệnh thế là hết vui
Bàn phấn bụi phủ ít chùi
Bàn văn chất đống/ bùi ngùi/ báo văn
Sáng mai
Đi bệnh viện càng buồn hơn cảnh chờ chực, xếp hàng:
Đứng/ Ngồi
Chật cứng phòng khám bệnh viện
Hữu Nghị
Muỗi vo ve
Quạt trần vo ve
Một
ngày ở phòng khám bệnh viện Hữu Nghị
Ở bệnh viện, có người
đàn bà hát, nhưng đó là người đàn bà cô đơn, nạng gỗ, ba lô cóc, hát sau khi “nằm
ho” ( Người đàn bà hát). Cũng ở đó có
hai người già cháu con về hết “ Người đàn
bà chiếu chăn phích nước/ Có lúc người
đàn bà sụt sịt/ Có lúc cằn nhằn/ Có lúc
ngủ như gà mổ thóc/ Người đàn ông chan chan nước mắt”
( Bên bờ mưa).
Một ngôi nhà cuối ngõ “ Có bà
già và những con gà/ Bà chẳng biết nói chuyện với ai” ; bà nuôi gà bằng bún.
Rồi “ Hôm qua bão to/ Sáng nay con bà
xách làn đến/ Mưa rét/ bà chết/ đêm qua” ( Bà già và những con gà). Ở “Phố
Nhà Giàu” nhưng có người đàn ông chết cô
đơn “ Không trống/ không kèn/ Không người
dẫn dắt” ( Người chết ở phố nhà giàu).
Ra chợ hoa, cũng
cám cảnh chợ ế hàng và nỗi khổ của người
lao động:
Phố đóng cửa
Xe rác xếp hàng
Ngày hết
Tết đến
Chợ hoa tan tác
Có tiếng sụt sịt khóc
Chợ
hoa 2016
Ghé quán cóc thì chứng kiến sự chia tay đầy nước mắt và trĩu
buồn:
Người đàn bà đi qua cửa nhà mình
Qua cửa nhà mình và khóc
Nước bết vào tóc
Người đàn ông ngồi trong quán cóc
Uống thuốc độc vào mình
Mù mịt
Chia tay
Bứt ra khỏi thành phố, vào tận biển Xuân Thành nhưng cũng chẳng
vui hơn, dù được đón tiếp tưng bừng bởi những cô Kiều trẻ:
Những cô Kiều mười tám đôi mươi
Kèn sáo tưng bừng đón tiếp
Biển ở đây có thêm nhiều nước mắt
Về
quê Nguyễn Du
Làm thơ ư? “Thơ in ra
không biết tặng ai”. Mấy nhà thơ có sáng kiến lập ra “Quầy bán và đốt” nhưng chủ yếu là “Đốt thơ người thuê đốt” vì thơ tặng còn
không có người nhận thì bán cho ai! (Quầy bán và đốt).
Cái buồn không
chỉ lấn át cái vui như trước đây mà phải nói là cả tập thơ đều bao phủ bởi một
tâm trạng buồn. Dù cho cũng có một vài nét vui ở những hồi ức về một “thời trong trẻo”, một mối tình xưa, hay
nghe tiếng đàn dương cầm, hoặc chơi với cháu…
Có thể lí giải
nỗi buồn này từ nỗi buồn lớn của đất nước “ Tây
Nguyên khát nước/ Chuồn chuồn kêu mưa/ Rừng vàng ngày một dần thưa/ Thảm họa
Vũng Áng mới vừa chưa qua/ […] gió bão đổ
nhà/ Máy bay mất tích không nhà người thân”
(Buồn không đóng cửa). Và cũng là nỗi buồn riêng khi tuổi
cao, sức khỏe sa sút, bạn bè ngày một dần thưa vắng.
Chưa bao giờ
Nguyễn Việt Bắc tuyên ngôn coi nỗi buồn là gia tài, nỗi buồn là báu vật. Nhưng
cái buồn cứ tự nhiên mà thấm vào cách nhìn, cách cảm, cách thể hiện. Anh coi thơ
ca là tài sản của mình, là những chữ nghĩa gặt được như nông dân thu hoạch thóc
vàng “ ròng ròng mồ hôi”. Thơ với anh là nỗi niềm trao gửi. Nguyễn Việt Bắc đằm
sâu trong cảm xúc, cô đọng trong chữ nghĩa, lặng thầm chia sẻ với bạn đọc về những
chiêm nghiệm cuộc đời của mình. Cụ Nguyễn Du từng viết “ Tẻ ( Buồn) vui bởi tại lòng này”. Cái buồn tự đáy lòng , cái buồn tích
tụ từ âm thầm cuộc sống “
ngày ngày tôi lặng im” để rồi lên tiếng ở trong thơ, gửi trao cùng bạn đọc.
Tôi nghĩ cái buồn đó cần thiết để chúng ta thanh lọc tâm hồn, giữ cho tâm an, lòng
sáng.
Hà Nội, 20 - 28 tháng 10 năm 2016
In trên VĂN NGHỆ CÔNG AN số 338 này 24-27 tháng 4 năm 2017. Đây là bản đầy đủ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét