NHỮNG VẦN THƠ TẠC VÀO LỊCH SỬ
PHÓNG
VIÊN VĂN NGHỆ TRẺ (PV): - THƯA ANH, NHÂN KỈ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM 22 – 12, XIN ĐƯỢC PHỎNG VẤN ANH – MỘT NHÀ PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG
“THUẦN DÂN SỰ” - ĐÔI ĐIỀU VỀ TÁC PHẨM CỦA CÁC NHÀ VĂN CHIẾN SĨ. NẾU ANH CHO
PHÉP, XIN ĐƯỢC BẮT ĐẦU BẰNG CÂU HỎI: ẤN TƯỢNG SÂU ĐẬM NHẤT CỦA ANH VỀ THẾ HỆ
CẦM BÚT THỜI CHIẾN TRANH GIÀNH VÀ BẢO VỆ NỀN ĐỘC LẬP DÂN TỘC TRONG THẾ KỈ QUA?
Vũ Nho:
- Để ngắn gọn ta hãy nói hẹp lại, về...thơ, trong khoảng thời gian những
năm 60, 70 chẳng hạn?
PV:
- Vâng, cùng tác giả của “Đi giữa miền thơ”, xin trở lại với miền thơ thời
kì chống Mĩ: Điều ấn tượng nhất đối với anh về thơ của giai đoạn này là...?
Vũ Nho: - Giai đoạn này là giai đoạn thơ
Việt Nam đạt được những thành tựu không thể phủ nhận với sự xuất hiện của một
đội ngũ các nhà thơ chiến sĩ: Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn
Duy, Phạm Ngọc Cảnh, Vương Trọng, Trần Mạnh Hảo, Anh Ngọc...Hoàng Nhuận Cầm.
Đội ngũ “các nhà thơ mặc áo lính” thời kì này đông đảo, xin nêu vài tên tuổi
làm thí dụ như thế. Đông đảo mà mỗi người một vẻ. Với đóng góp của riêng mình
các anh đã làm nên một thơì kì có thể nói là rực rỡ của thơ. Thơ, thời kì này
nhiều người thuộc, vẫn còn thuộc cả. Ấn tượng về nó, cũng nói ví dụ thôi: thơ
Phạm Tiến Duật là khói lửa, bom đạn chiến trường. Bom càng nổ to, thơ anh càng
vang lớn. Tiếng thơ như “tiếng hát át tiếng bom”. Với tôi, một trong những cái
đặc sắc nhất của thơ Phạm Tiến Duật là sự trẻ trung, tươi tắn, lạc quan. Thơ
anh có cái vui vui, đùa đùa, tếu tếu một tí...Đó chính là cái lạc quan. Trong
hoàn cảnh lúc bấy giờ, lạc quan là cần chứ. Hữu Thỉnh lại có cái mới, cái đặc
sắc riêng của anh ấy. Tuy rằng hai anh là đồng hương, cùng là bộ đội. Thơ Hữu
Thỉnh một nửa là tiền tuyến, một nửa là hậu phương. Ngay những bài thơ nổi
tiếng đầu tiên như là bài “Mùa xuân đi đón” thì cũng là những câu chuyện anh bộ
đội nhớ về cỏ mùa xuân ở nhà nó thế nào. Đang mùa xuân như thế thì ở nhà “cỏ
đội bờ thoả sức”. Thấy cỏ non tơ thì bỏ hết cả dép ra để bước lên cỏ mềm. Ngay từ
đầu thơ Hữu Thỉnh đã tiến lên là tiền tuyến, lùi lại là hậu phương như vậy.
Theo mình, thơ anh Hữu Thỉnh nó bền bỉ một phần là vì thế. Trong khi đó, Phạm
Tiến Duật tập trung toàn lực để tiến lên phía trước. Hậu phương của thơ Phạm
Tiến Duật có thể nói là...để hơi trống. Hay là thơ Hoàng Nhuận Cầm chẳng hạn.
Hoàng Nhuận Cầm đóng góp bằng cái trẻ trung, trong sáng của một thanh niên vừa
rời ghế nhà trường vào quân đội. Trong khi Phạm Tiến Duật đã “Gửi em, cô thanh
niên xung phong” thì Hoàng Nhuận Cầm vẫn còn “vòng bi mới lăn hết vòng tuổi
nhỏ”, “vào trận khi mùa ve đang kêu”...Bên cạnh đó là các bậc đàn anh chuyên
trận mạc như Nguyễn Đức Mậu chẳng hạn. Có lần mình đã thử tìm một bài thơ tình
yêu theo cái nghĩa tình yêu thực sự nam nữ của anh Mậu mà không tìm ra. Có lẽ
cũng cần kiểm tra lại xem, nhưng hình như là thế: trường ca thì “Trường ca sư
đoàn”, bạn thì bạn chiến đấu, là “Nấm mộ và cây trầm”...
Mỗi người
mỗi nét, đều đóng góp vào sức viết, bằng cái đặc sắc, cái mới của mình cho thơ,
cho văn chương.
PV:
- Thưa anh, như thường nói, đó là thời của những tài thơ, thời của niềm vui
ra trận?
Vũ Nho:
- Thời của những người dám hi sinh vì sự nghiệp lớn của dân tộc. Ví như anh
thanh niên vừa mới cưới vợ xong, cưới xong là ra trận. Hoàn cảnh ấy ai mà chẳng
buồn? Người ra trận, bước chân đi là chẳng thể hẹn ngày về. Ví như trong một
gia đình, người con thứ nhất ra mặt trận, rồi bặt tin. Cuộc chiến dài như thế,
bặt không tin tức, thì người ở nhà biết là xảy ra chuyện rồi. Con nhà bên cạnh,
cái anh ở làng bên có tin về. Không có tin về, không có giấy báo về, người ta
linh cảm được sự hi sinh. Nhưng người con thứ hai vẫn có thể tiếp tục ra
trận...Người con cuối cùng vẫn có thể tiếp tục ra trận. Đi, vì một lẽ lớn của
dân tộc. Nếu không ra trận, thì ai sẽ trả thù cho người đã ngã xuống? Ai sẽ giữ
vững nền độc lập cho non sông đất nước? Nếu ai cũng nghĩ rằng: tôi phải ở nhà
để phụng dưỡng cha mẹ già, tôi phải ở nhà vì tôi là con một, là người cuói cùng
của dòng họ...thì lấy ai ra chiến trường? Bây giờ cuộc chiến lùi xa rồi, người
ngoài cuộc thật khó mà cắt nghĩa được, thật khó mà hiểu trọn điều này. Thơ có
thể giúp người ta tìm hiểu, cắt nghĩa. Anh Hữu Thỉnh có viết một câu, ý rằng:
không có thơ, thì chúng tôi làm thơ để ghi lại cuộc đời mình. Làm thơ lúc ầy vì
một cái lẽ giản dị thế thôi! Anh Phạm Tiến Duật cũng viết: “Giữa chiến
trường tiếng bom nghe rất nhỏ”. Thế đấy, nếu đứng ngoài cuộc, ra ngoài
cuộc...mà nghe thì tiếng bom kinh quá, hãi quá. Cả nước vào trận chiến, triệu
người như một. Mình thấy rằng, thời ấy, những bài thơ của các nhà thơ mang áo
lính – những nhà thơ quân đội – và cả thơ của những nhà thơ không trực tiếp
đứng trong quân ngũ, tất cả đều hướng về mặt trận. Lúc đó, làm thơ mà có ai
không nói đến chiến trường, có ai mà không nói đến sự hi sinh đâu? Cứ đọc lại
mà xem, từ những nhà thơ ngoài mặt trận, cho đến các nhà thơ ở hậu phương, đều
thế.
PV: -
Đó là không khí đời sống. Vậy còn không khí văn chương nói chung và thơ nói
riêng trong kí ức của anh về thời đó?
Vũ Nho:
- Câu hỏi làm mình nhơ lại cái thời mình còn ở khoa Văn, Sư phạm Việt Bắc.
Khoa Văn lúc đó sơ tán ở làng Lân, Phú Lương, Thái Nguyên. Tên xã thì không nhớ
nữa, nhưng tên làng là làng Lân. Lúc bấy giờ báo “Văn nghệ” còn rất hiếm. Cả
khoa mới có một tờ “Văn nghệ”. Chuyền nhau đọc. Mình và các cán bộ giảng dạy
khoa Văn lúc bầy giờ đọc những bài thơ của cuộc thi thơ báo “Văn nghệ” được
công bố. Đọc và linh cảm Phạm Tiến Duật sẽ được giải. Sau này lại dự đoán thơ
Nguyễn Đức Mậu sẽ vào giải. Mình nhớ rằng anh Nguyễn Đức Mậu lúc đó có bài thơ
về cô gái bị thương, băng kín hai mắt. Chúng mình hồi hộp theo dõi từng bài thơ
dự thi được công bố và dự đoán...Và sau đó đúng là họ được giải. Những bài thơ
ấy thật mới lạ. Đó là thơ của nguời trực tiếp đứng ở trong cuộc chiến. Thơ anh
Phạm Tiến Duật chẳng hạn, thường bao giờ cũng ghi ở cuối bài các địa danh:
Sê-pôn, Ngã ba vùng rừng không dân, Vùng rừng Lào...những địa danh, chỉ nguyên
cái địa danh cũng khiến chúng mình khâm phục, bởi vì đó thực sự là chiến trận.
Có thể hôm nay còn làm thơ, nhưng ngày mai bom nó dội trúng thì những bài thơ không còn mà cả tác giả cũng không còn. Nhưng mà cái
chuyện ấy không ai nghĩ đến. Cứ viết. Còn sống là còn viết. Còn viết là còn gửi
về. Còn gửi về là có thể còn in. Những bài thơ của các anh toát lên một niềm tự
hào dân tộc, niềm tự hào của “Dáng đứng Việt Nam “ như nhà thơ Lê Anh Xuân đã
viết. Đến cả khi đã hi sinh rồi mà dáng đứng ấy vẫn hiên ngang, vẫn khiễn kẻ
thù khiếp sợ!
PV:
- Vâng thưa anh, những vần thơ như thế không phải bỗng dưng mà dựng lên
được. Thơ ấy bắt rễ từ một hiện thực hào hùng...
Vũ Nho:
- Nói như các nhà lí luận văn học thì: văn chương bao giờ cũng phản ánh đời
sống của một dân tộc, của một đất nước và bao giờ cũng mang tính lịch sử. Mình
mở ngoặc thế này: Trần Đăng Khoa lúc ấy còn đương là một chú bé, chưa đi bộ
đội. Thế mà “Hạt gạo làng ta” thì “Những năm băng đạn vàng như lúa đồng”
mà “Bát cơm mùa gặt thơm hào giao thông”. Người ta cũng biểu dương Trần
Đăng Khoa ở cái chỗ là chú bé như thế mà làm thơ với đầy đủ ý thức chính trị.
Mà thậm chí nếu bạn không có ý thức gì to tát, thì cũng phải ý thức rằng...đánh
nhau. Cho nên là phải “mặc áo giáp đen”, phải nghĩ đến Thánh Gióng – “Ông
trời/ Mặc áo giáp đen/ Ra trận”. Kiến phải “hành quân đầy đường”.
Mía phải “múa gươm”. đến số phận con chó vàng thì cũng gắn với chiến tranh. Bom
Mỹ nổ, mày chạy đi đâu? Mà rõ ràng bom Mỹ nổ thật. Thơ các anh ngày ấy mang
không khí chiến trận, không khí chiến trận của cả dân tộc. Tất cả những cái đó
nó vào thơ hết sức tự nhiên.
PV:
- Thưa anh, bây giờ vẫn tồn tại đâu đó ý kiến cho rằng thơ và văn chương ta
thời kì chiến tranh là thơ minh hoạ, văn chương minh hoạ...
Vũ Nho:
- Trước hết cần xem lại khái niệm thế nào là minh hoạ. Thí dụ, mình xem một
cuốn sách mà có tranh minh hoạ thì rõ ràng là hay hơn không có minh hoạ, đúng
không nào? Minh hoạ lại đẹp, minh hoạ lại nghệ thuật thì sướng hơn chứ! Nếu anh
minh hoạ một cách vụng về, kém cỏi, phản cảm thì đúng là có thể phê phán. Nhưng
mà đây là sự minh hoạ hết sức tinh tế, tự nhiên, sáng tạo, phù hợp với nội dung
của thời đại, phù hợp với tinh thần của dân tộc...Thế thì mình cho cái sự minh
hoạ ấy là cần thiết. Sao lại có thể phê phán nhỉ? Cái đó là nghệ thuật chứ! Văn
chương nghệ thuật nào mà chẳng để minh hoạ cho cuộc sống? Có thể minh hoạ cho
“cuộc sống lớn” của nhân loại, của dân tộc mà cũng có thể minh hoạ cho “cuộc
sống con” của cá nhân. Được minh hoạ và minh hoạ được “cuộc sống lớn” của dân
tộc là đáng tự hào chứ, là niềm hạnh phúc của các văn nghệ sĩ chứ! Nói vui nhé,
những người đặt thành vấn đề “văn chương minh hoạ” để chê bai ấy, họ có thể sẽ
làm mích lòng các nhà hoạ sĩ. Minh hoạ của các nghệ sĩ tài năng bao giờ cũng
làm cho đối tượng minh hoạ trở nên sinh động hơn, hấp dẫn hơn, hay hơn. Thế thì bây giờ một chủ
trương, một đường lối, một phương châm đúng đắn và lớn lao của dân tộc, của
nhân loại mà được các nghệ sĩ minh hoạ và minh hoạ một cách sâu sắc, có nghệ
thuật thì giá trị hơn nhiều cái việc anh đứng ngoài, anh bảo: cái việc này là
minh hoạ, tôi không tham gia vào. Người đứng ngoài trong những trường hợp như
thế là có tội với đồng loại, có tội với dân tộc, có tội với lịch sử. Luôn có
một số người đứng tách ra phê phán như thế. Họ viết về những nỗi niềm riêng tư.
Đương nhiên có cái cá nhân bắt được vào nhịp của nhân loại, của dân tộc...thì
trường tồn. Nhưng có những cái cá nhân lạc lõng, vô bổ.
PV:
- Có thể nói rằng cuộc chiến tranh
giữ nước vĩ đại của dân tộc ta đã có một nền văn chương tương xứng, thưa anh?
Vũ Nho:
- Nếu nói như vậy thì cũng cần phải nói thêm: cao vọng của chúng ta bao giờ
cũng muốn đạt tới những tác phẩm tương xứng hơn, tầm cỡ hơn, đồ sộ hơn...Từ góc
độ của một người thưởng thức, của một người viết phê bình, mình cho rằng: với
những gì các nhà văn, nhà thơ đã làm được về cuộc chiến đấu của dân tộc chống
xâm lược, với những gì các anh đã viết nên, các anh có quyền ngẩng cao đầu tự
hào.
PV:
- Những thế hệ cầm bút - đặc biệt là những thế hệ vừa cầm súng vừa cầm bút,
trải qua các cuộc chiến cứu nước và giữ nước vĩ đại - đã tận hiến cho dân tộc.
Tác phẩm của các anh đã góp phần làm nên lịch sử, đã tạc vào lịch sử. Xin được
tỏ lòng cảm ơn đối với các anh! Xin cảm ơn nhà phê bình Vũ Nho!
Văn Nghệ
Trẻ số 51(369)
Tạc vào lịch sử?
Trả lờiXóaVà phải tạc vào lòng người qua nhiều thế hệ mới thực sự là thơ hay.
Cám ơn Bulukhin Nguyễn!
Trả lờiXóaTạc vào lịch sử cũng có nghĩa tạc vào lòng người rồi. Có sử chép vào sách, có sử truyền trong dân gian. Có bia đá, nhưng cũng có bia miệng...
TNX đã đọc. đọc thôi. k bình đâu vì k biết nói chi cả hé hé
Trả lờiXóaĐọc là tốt rồi! Đôi khi không nói gì cũng là bình luận đấy!
XóaMời xem Tản văn để học tập!
VNNB :D
Anh Vũ Nho ơi! thực ra anh vẫn chưa đi hết các bước của G+ hướng dẫn, nếu anh cần M giúp thì gửi nick và pw ở gmail vào email của M là: muitran1954@gmail.com - M sẽ giúp anh thêm vài chức năng nữa.. tính M thích giúp bạn bè thế đó. Sau khi hoàn chỉnh rồi anh đổi pw cũng đc.
Trả lờiXóa