GIẾNG TRÈM
(Tản văn)
ĐƯỜNG VĂN
Khác
với nhiều làng quê Việt Nam, làng Trèm mình không có truyền thống về giếng
thơi (khơi). Vì lẽ đơn giản, từ khởi thuỷ đến nay, vị trí địa lý
tự nhiên của làng vẫn nằm giữa hai dòng sông: một lớn (Hồng), một
nhỏ (Nhuệ). Đôi sông Mẹ - Con
thừa cấp nước sinh sống, ăn làm quanh năm. Bởi vậy, dân Trèm xưa nay
quen ăn uống bằng nước sông đánh phèn, tắm giặt bằng nước ao làng vừa
trong vừa mát. Đi khắp làng xã, đố khách du tìm thấy đâu một cái giếng cổ xây bằng gạch gan gà rêu
xanh, bám quanh thành, hun hút đáy sâu làn nước lóng lánh ánh mắt
trai gái làng tình tự, như giếng các làng Tây Tựu (Đăm), Giàn, Cáo
(Xuân Đỉnh) hay Noi (Cổ Nhuế), những làng quê láng giềng cùng huyện
Từ Liêm, quận Tây Hồ, nhưng nằm cách xa 2 dòng sông ấy.
Phong trào đào giếng ở Trèm quê chỉ
mới rộ lên vào đầu những năm 60 thế kỷ trước cùng với phong trào
hợp tác hóa nông thôn. Phát triển rất rầm rộ, đều khắp. Giỡ điếm
lấy gạch xếp giếng. Xóm tôi đã từng làm thế. Và tất cả các xóm
khác trong xã cũng đều làm thế. Giếng Đại Đồng đào trên đất vườn
mượn nhà cụ Đương. Đào sâu đến 7 – 8 m thì gặp mạch. Nhưng không to
lắm. Xếp gạch nghiêng chung quanh thành từng vòng từ đáy lên đến
miệng. Xây thành, xây sân giếng. Bắc cần vọt kéo nước lên. Vui nhất
là cánh thanh, thiếu niên. Sáng sáng, trưa trưa, chiều chiều, cả đến
tối khuya, vẫn nghe tiếng kéo, đổ nước ào ào. Tiếng cười nói râm ran
ngoài giếng. Bài hát (hình như của Lê Lôi hay Nguyễn Văn Tý?):
Đôi
tay em kéo lên gầu nước trong/Đáy giếng như gương, soi hình bóng em!
có
lẽ ra đời trong thời gian này? Trai gái làng mượn chỗ tình tự khuya
bên bờ giếng cũng là một nét đẹp văn hóa làng Việt thưở mới phát
động phong trào làm ăn tập thể. Hầu như xóm nào cũng có giếng chung
của mình: Giếng Đình, giếng Bạc Hà, giếng Tắt Sen, giếng Đông Trung,
giếng Đông Trù, Cổng Ngỗng, Ngõ Đồng… Xóm Ngõ Đồng, dù kề ngay chân
đê, vẫn đào giếng, chạm ngay cái mạch lớn. Mùa hè, nước tràn chạt
cả lên mặt giếng, thành giếng, trong vắt, mát lạnh. Nhưng hơn hai chục
năm nay, giếng đã bị lấp bằng. Tiếc ơi là tiếc! Xóm Dốc Bạc cũng
gần sông, nhưng đào 2 cái giếng cạnh ao Đình lúc nào cũng ăm ắp nước,
nên mạch sông chưa gặp, đã thấy mạch ngang, mạch ao đùn vào ầm ầm.
Nước trong xanh nhưng hơi tanh mùi bùn. Mấy xóm ven sông khác (Tân Lập,
Tắt Sen, Ô Tô) không đào giếng mà vẫn cứ dùng nước sông như xưa. Cảnh thường
gặp bên bàn giặt - sân giếng: Những cánh tay trai cuồn cuộn bên cạnh
những cánh tay gái thon thon, trắng muôn muốt chà mạnh bàn chải ngầu
bọt xà phòng trắng lôm lốp lên mặt quân áo dán vào gạch giếng, ngay cạnh
một bà xồn xồn đang nhanh tay vo gạo, một ông trung tuổi đang sải kéo
lên gầu nước trong. Chuyện trò râm ran, cười đùa trêu chọc, hò hẹn ỡm
ờ… cũng đã trở thành cảnh sinh hoạt thôn làng rất bình thường, bình
yên sau buổi làm đồng nặng nhọc. Có đôi trai gái chia tay nhau với lời
hẹn nhỏ, tha thiết: - Sau bản tin đêm, bên bờ giếng, góc cây nhãn
khuất ấy, đừng sai hẹn đấy! Cô gái khẽ gật, quẩy nước về thẳng, vờ
không hề ngoái đầu lại trước cái nhìn đắm đuối của gã trai cùng
xóm. Bọn lau nhau chúng tôi hồi đó tò mò, thấy chết cười, vừa thích
vừa không thích, khi tình cờ nghe lỏm được những cuộc hẹn hò bí mật
kiểu ấy.
Cứ như thế tới sau giải phóng
miền Nam, dân Trèm vui niềm vui đại thắng, thống nhất đất nước, không
thỏa mãn với những cái giếng chung của xóm, ngõ nữa. Nhiều gia đình
bắt đầu khởi công đào giếng riêng của mình. Trong ngõ tôi, khởi sự
là nhà cụ Bình, tiếp theo là nhà anh Công, nhà chú Lâm, cụ Ao, ông
Vĩnh… gần cuối cùng mới tới nhà tôi. Giếng khơi nhà tôi được khởi
công và hoàn thành vào năm 1978. Vị trí giếng sát bờ rào nhà cụ
Đương (với nhã ý để nhà bên ấy cùng dùng), đầu bể nước (xây năm 1992,
còn sử sụng đến ngày nay). Tôi, khi ấy đang là thầy giáo cấp 2, dạy
trên Thượng Cát. Chiều chiều cùng tham gia đào giếng với hai chú em
Ba, Tư. Cụ ông đã già yếu, chỉ nhúc nhắc chút ít chân tay còn chủ
yếu làm công tác chỉ đạo. Mỗi ngày đào một ít. Đến khoảng gần 8m
thì gặp mạch dọc phun mạnh lên.
Đành dừng lại, đặt cống. Chiếc cống bê tông của bà dì cho. Tiếp đó,
nhờ ông Vĩnh láng giềng xếp gạch vòng quanh lên tới mặt đất. Anh em
tôi thay nhau thòng dây, thả gạch xuống. Một mình ông Vĩnh ngồi kỳ
cạch xếp, nắn, gõ. Thỉnh thoảng ông lại ngước lên dặn: - Cẩn thận
đấy, lỡ gạch rơi vào đầu chú! May phúc, trong suốt quá trình thi công
không xảy ra tai nạn nào. Xây thành bao quanh, lát sân giếng, dựng nhà
tắm nhỏ, xây bàn giặt xi măng…Mất đâu độ 2 tuần thì mọi việc hoàn
tất. Mượn lực cần vọt, từ từ kéo lên những gầu nước giếng trong
veo, mát rượi từ chiếc thùng kéo bằng cao su, đổ vào chậu rửa mặt
buổi sớm mai, ông bố nông dân yêu thơ của tôi đã cảm tác, ngân nga 4 câu
lục bát xúc động, bồi hồi, thỏa nguyện:
Bao năm tắm nước ao tù,
Vất vả bốn mùa, nước vẫn tanh hôi!
Bây giờ tắm nước giếng khơi,
Sạch, trong, mát, ấm, cho tôi thỏa
lòng.
Kế đó, cụ hào hứng dùng chổi
nhúng vôi trắng viết 4 dòng chữ
lớn lên ngay mặt bức tường hồi cạnh giếng, lại dùng bút chì đen chép
lần nữa lên tường trước cửa buồng cùng bài thơ và bức vẽ minh họa
cây hồng ta mới bói lứa quả đầu. Bài thơ
mừng giếng này, hầu như cả nhà, từ anh em đến con cái chúng tôi
đều thuộc lòng cho tới bây giờ như một kỷ niệm ấm ngọt về tình cảm
gia đình, về ông bố máu nghệ sỹ, về cái giếng khơi một thủa, một
thời.
Từ ấy, vĩnh viễn chấm dứt cái
cảnh ngày ngày 2, 3 lần, tôi phải còng lưng, è vai gánh hàng chục
gánh nước ao, nước sông về để cả nhà rửa ráy, tắm giặt, hoặc đổ
bể. Chấm dứt cảnh phải đi gánh nước giếng, tắm giặt nhờ tứ lân
hàng xóm. Như thế gần hai chục năm. Dần dần, giếng có mạch ngang
xuất hiện, nước trên sân (bị rạn), đọng trên rãnh, vườn bắt đầu rỉ
rích, ngấm xuống, hòa với nước giếng. Nước trở nên đục và có mùi. Lại
dở nữa là mùa nước lên, nước dâng theo mực nước sông, nhiều hôm tràn qua
thành giếng, chảy khắp sân ẩm ướt, ăn chân rất ngứa ngáy, khó chịu…
Đã đến lúc có điều kiện thay đổi, sử dụng nguồn nước sạch khác.
Cuối những năm 90 thế kỷ trước, làng Trèm bắt đầu xới lên phong trào
lấp giếng khơi, khoan giếng khoan cùng xây dựng khu phụ hiện đại (toalet: xí xổm hay xí bệt, nhà
tắm, lắp bình nóng lạnh, vòi hoa sen inốc sáng choang, lavabô …). Dù biết
rõ, đó là thuận quy luật cuộc sống nông thôn Việt Nam đi lên, nhưng sao
mấy ngày chở đất, cát lấp giếng đầu hồi, đành ngậm ngùi chôn luôn
cả con cá rô cụ tôi thả vài năm trước, lấp cả chiếc cống bê tông của
bà dì, chôn cả những vòng gạch bao tự đóng. Khi lòng giếng đã thành
mặt đất bằng, tôi trồng vào chỗ đó một cây chanh. Hai năm sau, chanh
đã ra hoa, đậu quả mà tôi vẫn chưa hết nao nao buồn, tiếc! Dòng chữ
số 7/78 do chính tay tôi khắc đậm lên trụ giếng, hóa thành kỷ niệm hằn
sâu trong ký ức dĩ vãng của mình thôi.
Dạo ấy, hầu hết giếng chung của
các xóm, ngõ, thảy đều bỏ hoang hoặc lấp bằng. Cả làng chuyển sang
dùng nước giếng khoan. Mới đầu lắp bơm tay, sau giếng khoan sâu, lắp bơm
máy công suất lớn, có thể hút nước từ độ sâu 20 – 30m, đẩy lên tới
tầng 5 – 6 những tòa nhà cao mới xây. Đến cuối những năm 10 thế kỷ 21,
hầu hết các gia đình trong làng đều song song sử dụng nước máy, ống, vòi nhựa tổng hợp
cao cấp bắc tới tận từng hộ gia đình và nước giếng khoan. Thật là
hiện đại và tiện lợi. Khoảng cách giữa làng thôn - phố thị đã được
thu ngắn đáng kể nhờ kết quả của phong trào xây dựng nông thôn văn
hóa, làng văn hóa.
Nhưng cũng bởi thế, dĩ nhiên, kỷ
niệm giếng Trèm, với riêng tôi, và có lẽ không chỉ với tôi, chỉ còn
lại trong mấy câu lục bát của người cha đã khuất núi từ lâu, trong
câu hát mượt mà Đôi tay em kéo lên
gầu nước trong, qua tiếng sáo
trúc véo von, lập bập của ông Hoàn mỗi khi cao hứng, và trong ánh
mắt thăm thẳm như muốn nói, muốn hẹn rất nhiều mà chưa dám nói của
người bạn gái láng giềng thủa ấy, bây giờ hẳn đã thành một lão bà
không biết trôi dạt nơi nao?
Giếng làng! Giếng Trèm một thời
để nhớ, một thủa để thương, một đi, không bao giờ trở lại! Giếng
Trèm, cùng với ao Trèm, sông Trèm… mãi mãi trở thành những mảnh hồn
Thụy Phương! Những mảnh tình quê!
Đông – xuân Nhâm Thìn - Quý Tỵ
(11 – 2012 – 4 – 2013).
ĐV
Một bài viết xúc động và ân tình!
Trả lờiXóaCám ơn Đường Văn!
Chủ trang
VNNB
Một bài viết hay, thắm đượm tình quê. Hình ảnh chầm chậm hiện về trong câu đùa, câu hát quanh giếng xưa.
Trả lờiXóaCảm ơn Bác Đương Văn.
Cám ơn ông bạn cao tuổi đã ghé trang và chia sẻ!
XóaChủ trang VNNB
TNX đọc zồi bác Nho nhé
Trả lờiXóaTNX đã ghé và đọc bác Nho nhé. TNX đang học tập cách viết tản văn nên chắc đọc bài này dài dài
Trả lờiXóaCám ơn đã đọc!
XóaBác Nho ghé trang TNX thấy cứ chạy tít mù. Hơi khó theo dõi!
Chủ trang VNNB