Nhà văn nhà giáo VŨ BÌNH LỤC
TRƯƠNG HÁN SIÊU
VÀ BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ
Vũ Bình Lục
Phiên âm:
BẠCH ĐẰNG GIANG PHÚ
Khách hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm, thập hạo đãng chi hải
nguyệt.
Triêu dát huyền hề Nguyên Tương, mộ u thám hề Vũ
Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nhân tích sở chi, mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng giả sổ bách, nhi tứ phương tráng
chí do khuyết như dã,
Nãi cử tiếp hề trung lưu, túng Tử Trường chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu, tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng Giang, thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế, trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thủy thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu.
Chữ địch ngạn lô, sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang, khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất bạc, trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng, thán tung tích chi không
lưu.
Giang biên phụ lão, vị ngã hà cầu?
Hoặc phù lê trượng, hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết: Thử Trung Hưng nhị thánh cầm Ô Mã
Nhi chi chiến địa, dữ tích thời Ngô Thị phá Lưu Hoằng Thao chi cố châu dã.
Đương Kỳ: Trục lô thiên lý, tinh kỳ ỉ nỉ.
Tì hưu lục quân, binh nhân phong khỉ.
Thư hùng vị quyết, nam bắc đối lũy.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang, thiên địa lẫm hề tương
hủy.
Bỉ Tất Liệt chi thế cường, Lưu Cung chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên, khả tảo nam kỷ.
Ký nhi: Hoàng thiên trợ thuận, hung đồ phi mị.
Mạnh Đức Xích Bích chi sư, đàm tiếu phi khôi.
Bồ Kiên Hợp Phì chi trận, thu du tống tử.
Chi kim giang lưu, chung bất tuyết sỉ.
Tái tạo chi công, thiên cổ xưng mĩ,
Tuy nhiên, tự hữu vũ trụ, cố hữu giang sơn,
Tín thiên tạm chi thiết hiểm, lại nhân kiệt dĩ điện
an.
Mạnh Tân chi hội, ưng dương nhược Lữ,
Duy Thủy chi chiến, quốc sĩ như Hàn.
Duy thử giang chi đại tiệp, do đại vương chi tặc nhàn.
Anh hùng khả tưởng, khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế, lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
“Đại giang hề cổn cổn, hồng đào cự lãng hề triều tông
vô tận.
Nhân nhân hề văn danh, phỉ nhân hề câu dẫn”.
Khách tòng nhi canh ca viết:
“Nhị thánh hề tịnh minh, tựu thử giang hề tẩy giáp
binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: Bất tại quan hà chi hiểm hề, duy tại ý đức
chi mạc kinh”
(Hoàng Việt
văn tuyển-Bùi Huy Bích)
Dịch nghĩa:
PHÚ SÔNG BẠCH ĐẰNG
Khách có kẻ:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Bèn giữa dòng chừ buông chèo,
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao,
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu,
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô,
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng dâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu!
Bên sông bô lão, hỏi ý ta sở cầu?
Có lẻ gậy lê chống trước, có người thuyền nhẹ bơi sau,
Vái ta mà thưa rằng:
Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng
Thao.
Đương khi ấy:
Thuyền bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới.
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến lũy bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối,
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi!
Thế nhưng: Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối!
Khác nào như khi xưa:
Trận Xĩch Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay nước sông tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù không rửa nổi!
Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi.
Tuy nhiên: Từ có vũ trụ, đã có giang san.
Quả là: Trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an.
Hội nào bằng hội Mạnh Tân: Như vương sư họ Lã,
Trận nào bằng trận Lưu Thủy: Như quốc sĩ họ Hàn.
Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng,
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn.
Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn.
Đến bên sông chừ hổ mặt,
Nhớ người xưa chừ lệ chan.
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
Sông Đằng một giải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về bể Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:
Anh minh hai vị Thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thủa thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
(Bản dịch của Đông Châu
Nguyễn Hữu Tiến, Bùi Văn Nguyên nhuận sắc thêm)
Thời trẻ, từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, Trương Hán
Siêu sinh năm nào chưa rõ. Có tài liệu ước đoán Trương sinh năm 1275. Chỉ biết rằng
ông từng phục vụ cả 5 đời vua Trần, và chính thức làm quan ở 4 đời vua, từ Trần
Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông đến Dụ Tông, tới chức Tham tri chính sự (1351, đời Trần Dụ
Tông). Khi mất (1354), Trương được truy tặng Thái Bảo, năm sau lại truy tặng
Thái Phó. Quê huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên, nay là thành phố Ninh Bình, Trương
Hán Siêu (tên chữ là Thăng Phủ) là một trí thức kiến văn thâm hậu, tính tình
cương trực, được vua và triều đình nể trọng, sau khi mất, lại được phối thờ ở
Văn Miếu Thăng Long (1372). Đó là một vinh dự ít người có được. Sáng tác của
Trương Hán Siêu hiện còn khoảng 80 bài thơ, và một số bài văn, mà Phú
sông Bạch Đằng là tác phẩm đặc sắc nhất của ông, cũng là một áng “thiên cổ
hùng văn” rực rỡ của nền văn chương nước nhà.
BẠCH ĐẰNG
GIANG PHÚ (Phú sông Bạch Đằng) được
Trương Hán Siêu viết vào thời điểm nào, chưa rõ. Nhưng có ý kiến cho rằng Phú sông Bạch Đằng có thể ra đời vào
khoảng 50 năm sau chiến thắng Bạch Đằng. Căn cứ vào tình ý của bài phú, nhất là câu Đến bên sông chừ hổ mặt / Nhớ người xưa chừ
lệ chan (Hoài cổ nhân hề vẫn thế / Lâm giang lưu hề hậu nhan), chúng tôi
ước đoán Bạch Đằng giang phú có thể
được Trương Hán Siêu viết ở thời Trần Dụ Tông, khi mà chính sự triều trần đang
ở thời kỳ ảm đạm, suy vong. Một đại thần trọng trách lớn, địa vị cao, công lao
nhiều, trải mấy đời vua Trần, mà không có cách gì làm cho triều chính trở lại
quang minh, nên Trương Hán Siêu cảm thấy hổ thẹn, hổ mặt (hậu nhan) với người xưa, nhất là trước Bạch Đằng lịch sử, âm hưởng
hào hùng như vẫn còn sục sôi cuộn chảy…
Về nhân vật
“khách chơi sông”, thường thì đó
chính là tác giả, cũng chỉ là một cách làm văn thông thường. Còn như các cụ bô
lão, theo tôi, cũng chỉ là một cách thể hiện hình ảnh tác giả, như một cái “mẹo”
phân thân, để bài văn thêm sinh động mà thôi. Chữ “hề”, chuyển ngữ sang tiếng ta
là “chừ”, chỉ là chữ đệm (hư từ), có nguồn gốc từ Sở từ (một thể từ của nước Sở). Khuất Nguyên, nhà thơ vĩ đại của
nước Sở thời Chiến quốc, đã dùng điệu Sở
từ để viết tác phẩm Ly Tao bất
hủ…
Mở đầu nói
cái thú ham chơi, ham thăm thú các danh lam thắng cảnh. Tác giả nói rằng có một
người khách ham chơi lắm, cứ Giương buồm
giong gió chơi vơi / Lướt bể chơi trăng mải miết. Buổi sớm còn gõ thuyền ở Nguyên Tương, ấy thế mà buổi
chiều đã thấy vị khách ấy đang lần thăm
Vũ Huyệt…Nhiều lắm, kể sao cho xiết, như Cửu Giang, Ngũ Hồ, rồi cả Tam Ngô,
Bách Việt…Để kết luận cái ý đi nhiều, thăm thú nhiều, chỉ có thể tóm gọn vào
một câu: Nơi có người đi, đâu mà chẳng
biết!...
Đấy chính
là những địa danh thuộc phía nam Trung Quốc bây giờ. Nhưng đấy cũng chính là những
địa danh của các dân tộc thuộc Bách Việt xưa, từ phía nam sông Dương Tử trở
xuống, sau bị người Tần, Hán…dần dà nuốt mất, rồi đồng hóa thành người Trung Quốc
cả. Chả biết Trương Hán Siêu có ẩn ý gì không, khi kể ra những địa danh của
người Bách Việt xưa. Lịch sử vốn đỏng đảnh và nhiều điều trớ trêu, khiến người
đời sau đôi khi phải gượng cười chua xót. Có thể Trương Hán Siêu vừa có ý trang
điểm cho nhan sắc văn chương, nhưng cũng không loại trừ ẩn ý sâu xa của tác
giả. Chung quy, chỉ là nói cái sự đi nhiều, chiêm bái nhiều những danh lam
thắng cảnh ở mấy tỉnh ngoài biên giới phía bắc nước ta ngày nay, để làm điểm
tựa mà nhấn vào cái nơi quan trọng nhất, ấy chính là địa danh lịch sử Bạch
Đằng…Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ
cũng nhiều / Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết! Khẳng định rằng đã đi
nhiều, cho dù, phần nhiều chỉ có thể là chu du trong sách vở, chứa chất trong
dạ, trong bụng mà thôi! Tác giả nói rằng ông đã học cái cái thú ham đi ham chơi
ấy ở Tử Trường, tức Tư Mã Thiên, một
sử gia nổi tiếng ở Trung Quốc thời Hán, tác giả bộ Sử Ký Tư Mã Thiên bất hủ…
Thế là nói
từ xa đến gần, từ rộng về hẹp, để tập trung vào tiêu điểm quan trọng nhất: Sông
Bạch Đằng!
Qua cửa Đại Than ngược bến Đông Triều, đến
sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều. Và đây, dòng sông lịch sử mở ra trước
mắt: Bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt
tha đuôi trĩ một màu / nước trời: Một sắc, phong cảnh: Ba thu…Thật là cảnh
tượng tráng lệ và hùng vĩ. Sóng nước Bạch Đằng cuồn cuộn như muôn dặm cá kình
đang quẫy đạp. Muôn thuyền buồm ngược
xuôi như đuôi chim trĩ. Có ý kiến
giải thích rằng đuôi chim trĩ có hình bánh lái thuyền, để chỉ thuyền, nhưng tôi
cho rằng tác giả có ý ví những cánh buồm nâu của những con thuyền thướt tha như
đuôi chim trĩ qua lại ngược xuôi, vì đây là quan sát từ xa, trong toàn cảnh
không gian một vùng cửa sông rộng lớn, nước và trời như trộn vào nhau một sắc
xanh ngắt, ở vào thời điểm tháng cuối của mùa thu (ba thu). Vả chăng, làm sao mà nhìn thấy bánh lái con thuyền ở dưới
nước, để biết nó “thướt tha” được? Hình ảnh thướt
tha đuôi trĩ, vì thế chỉ có thể là những cánh buồm đảo qua đảo lại, mới có
thể quan sát thấy mà thôi!
Và đây là
cảnh ở gần hơn và tâm sự của tác giả:
Bờ lau san sát, bến
lách đìu hiu,
Sông chìm giáo gãy, gò
đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm,
đứng lặng giờ lâu,
Thương nỗi anh hùng
đâu vắng tá?
Tiếc thay dấu vết
luống còn lưu…
Hình dung như thấy một ông lão đang đứng một mình bên sông,
nhìn cảnh mà sinh tình. Nếu như ở trên là cảnh ở tầm khái quát, rộng lớn (vĩ
mô) và hào tráng, thì đây là cảnh ở gần, ở ngay trước mắt (vi mô). Tình ở trên
là cảm xúc phơi phới tươi vui, thì ở đây là những xúc cảm bùi ngùi, nặng trĩu
suy tư của người đã từng trải qua những năm tháng đầy máu lửa của chiến tranh
tàn khốc. Chỉ thấy bờ lau san sát với
bến nước đìu hiu mà tưởng tượng ra
cảnh những ngọn giáo gãy còn ngổn ngang chìm dưới đáy sông sâu (chiết kích trầm giang) và nhấp nhô những
gò đống chứa đầy xương khô của những chiến binh bỏ mình nơi đây, mà buồn cho
cảnh thảm, rồi thương nỗi anh hùng đâu
vắng tá? Muôn lớp anh hùng một đi không trở lại, mà quá vãng thì vẫn còn
lưu dấu ở nơi đây, khiến cho tấc lòng người ngắm sông khuấy lên bao nỗi cảm
hoài.
Trọng tâm
của bài phú về sông Bạch Đằng, đương nhiên không chỉ dừng lại ở những cảm xúc
hoài cổ bi thiết, mà ở chính sự ngợi ca những chiến công ở khúc sông này, trong
lịch sử chống ngoại xâm và đặc biệt là ở đời Trần. Qua lời kể của các bô lão
với tác giả (khách), thủ pháp nghệ
thuật này tỏ ra hiệu quả hơn, bởi sự khách quan, bởi sự sống động lung linh
huyền sử, quá vãng sẫm màu và hiện tại mênh mang của câu chuyện. Những tháng
năm oanh liệt chống giặc phương Bắc của người Đại Việt ta, cứ hiện dần lên rõ nét
và hấp dẫn vô cùng. Rằng:
Đây là chiến địa buổi
Trung Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa,
thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao…
Trùng Hưng là niên
hiệu ở đời Trần Nhân Tông và Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông. Tác giả đề cao
hai vua Trần (Nhị thánh), theo quan
điểm nho gia, điều ấy chẳng có gì lạ. Nhưng trước đó, cũng ở chính nơi đây, Ngô
Vương Quyền (Ngô chúa) cũng đã từng
tiêu diệt quân Nam Hán, giết chết tướng giặc Hoằng Thao, năm 938. Một sự kiện lặp
lại trong lịch sử, không hề là ngẫu nhiên, bởi sau Ngô Quyền, danh tướng Phạm
Cự Lạng (Lượng) của vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) cũng từng tiêu diệt quân Tống xâm
lược, ở chính nơi đây. Thế là trời sinh ra đất hiểm này, dành làm chỗ vùi thây
quân xâm lược phương Bắc. Kẻ xâm lược không chịu rút ra bài học của tiền nhân,
để chuốc lấy mối nhục muôn đời không rửa nổi...
Và đây là
trận đánh giặc Nguyên Mông trên quãng sông này, qua lời kể của các bô lão:
“Đương khi ấy: Thuyền
bè muôn đội, tinh kỳ phấp phới / Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói / Trận đánh
được thua chửa phân / Chiến lũy bắc nam chống đối”…
Đó chính là những hình ảnh được
dựng lên ở tầm khái quát, toàn cảnh, giữa địch và ta. Đây là trận đánh có ý
nghĩa chiến lược, quyết chiến để giành toàn thắng với ta. Còn với kẻ thù, do đó
cũng là trận đánh quyết định số phận của chúng, nên tính chất ác liệt càng dữ
dội, không thể khác. Cả hai bên đều dốc hết toàn lực, khí thế ngất trời, cả sáu quân, cả thuyền bè muôn đội, giáo gươm sáng chói, rồi tinh kỳ phấp phới, mà
trận đánh vẫn còn đang ở giai đoạn giằng co, càng lúc càng cam go quyết liệt. Dựng
cảnh chiến trường ở tầm khái quát, tác giả dùng những hình dung từ, tính từ chỉ
màu sắc…Nhưng để tả tính chất quyết liệt của trận đánh, tác giả sử dụng những
động từ mạnh, liên tiếp, và nhất là thủ pháp khoa trương để tả sự dữ dội, khốc
liệt của chiến trường, đến như Ánh nhật
nguyệt chừ phải mờ / Bầu trời đất chừ sắp đổi! Khí thế của chiến trường,
cùng với khói lửa ngút trời bốc lên cao mãi, che lấp cả mặt trời mặt trăng (nhật nguyệt), khiến cho bầu trời đất
dường như muốn đổi sắc. Thật là một đoạn văn tuyệt kỹ, hừng hực hào khi Đông A,
thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng của quân dân Đại Việt, từ xưa, cũng chưa
từng có bao giờ. Đời Hậu Lê, Nguyễn Trãi cũng một lần nữa thành công với ngòi
bút thiên tài của mình, khi ông viết Bình
Ngô đại cáo, tái hiện những trận đánh quyết liệt của quân ta với giặc Minh
xâm lược.
Tiếp đó là
những lời bình luận về ta và địch, về sự thắng sự thua, trong lịch sử và trong
thời đại nhà Trần. Về những tiền lệ, ngay đối với lịch sử của đối phương, thì
đây: Thế quân mạnh mẽ như Hốt Tất liệt, thừa hưởng từ tiền bối của chúng là
Thành Cát Tư Hãn, vó ngựa từng dẫm nát cả châu Âu và vùng Tiểu Á cổ kính, rồi
tiến xuống phương nam quật ngã Trung Hoa khổng lồ, không dân tộc nào ngăn được
ý chí muốn nuốt chửng thế giới của chúng. Còn vua Nam Hán Lưu Cung cũng nhiều
tham vọng và thủ đoạn như vậy. Bọn chúng Những
tưởng gieo roi một lần, có thể quét sạch Nam bang bốn cõi! Chúng huyênh
hoang, tự đắc, khinh địch và mắc chứng hoang tưởng. Thế nhưng: Trời chẳng chiều người! Chúng vô phúc khi phải đối đầu
với một dân tộc tuy nhỏ bé mà kiên cường bất khuất, dưới sự lãnh đạo sáng suốt
của nhà Trần, đã từng hai lần ôm đầu máu chạy dài, thế mà vẫn không chịu rút ra
bài học ngu xuẩn của sự hoang tưởng, nên hung
đồ hết lối, phải ấm ức chết chìm dưới dưới sóng nước Bạch Đằng lịch sử…Rồi
so sánh trận Bạch Đằng với trận Xích Bích ở thời Tam quốc, Chu Du dùng kể hỏa
công của Khổng Minh, đánh tan 80 vạn quân Tào Tháo. Chưa hết, lại còn so sánh
nữa, như trận Hợp Phì, một huyện thuộc tỉnh An Huy, nơi sông Hoài hợp với sông
Phì, Tạ Huyền đánh tan trăm vạn quân Bồ Kiên ở đó. Thế nên:
Đến nay nước sông tuy
chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn
rửa nổi!
Dòng sông Bạch Đằng vẫn thản nhiên chảy mãi, mà Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (Giang
Văn Minh), mà nhục quân thù khôn rửa nổi!
Vậy là Tái tạo công lao, quân dân Đại
Việt một lần nữa lại lập chiến công bất hủ trên dòng sông này, nghìn xưa ca
ngợi!
Đó là những lời bình luận tâm huyết của tác giả về ý nghĩa
của những chiến công trên sóng nước Bạch Đằng, nhất là chiến công hiển hách mới
đây của quân dân đời Trần. Còn đây là những lời bình luận về nguyên nhân thành
bại:
Thứ nhất là địa linh,
trời đất cho ta nơi hiểm trở. Dòng
sông Bạch Đằng chảy xiết, núi dựng bên sông như giáo mác, chính là nơi có thể
vùi thây quân địch, cho dù chúng hung hãn và thiện chiến đến đâu chăng nữa. Thứ
hai là nhân kiệt. Đời Trần, các vua
Trần như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, đều là những vị vua anh hùng. Lại
thêm những tướng lĩnh kiệt hiệt, như Đại Vương Trần Hưng Đạo, vị tổng tư lệnh
thiên tài, rồi Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật
Duật, cùng rất nhiều những anh hùng hữu danh và vô danh khác, lãnh đạo, chỉ huy
quân dân làm nên những chiến công lừng lẫy. Hình như là chưa đủ, tác giả còn so
sánh cuộc hội quân của Tiết chế Trần Hưng Đạo diễn ra ở bến Bình Than dưới
triều Trần, với hội Mạnh Tân ở đời nhà Chu, khi Lã Vọng (Khương Tử Nha) giúp Chu Vũ Vương hội quân ở đây, diệt Trụ. Rồi Trận
Duy Thủy, đời Hán Cao Tổ Lưu Bang, danh tướng Hàn Tín dùng kế tháo nước đánh
bại quân Tề. So sánh như thế, để thấy rõ tài năng kiệt xuất của tướng lĩnh nhà
Trần, chẳng những giỏi về chiến trận, mà còn giỏi cả mưu lược. Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng / Bởi Đại
Vương coi thế giặc nhàn! Đại Vương đây là Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Tiết
chế toàn quân, có tầm nhìn chiến lược thật kỳ diệu. Giặc Nguyên Mông kéo sang
lần thứ ba, quyết trả thù cho hai lần đại bại trước đó, vào các năm 1255, 1285.
Thế giặc lần này rất mạnh và hung hãn. Vua Trần Nhân Tông hỏi Hưng Đạo Vương: “Giặc đến thì làm thế nào?”, Hưng Đạo
Vương nói: “Thế giặc năm nay dễ phá”!
Thế là Đại Vương đã nắm chắc phần thắng trong tay, chỉ còn chờ thời cơ tiêu
diệt chúng. Thực tế đã diễn ra đúng như nhận định của vị thống soái thiên tài.
Tác giả đã phải thốt lên: Kìa trận bạch
Đằng mà đại thắng / Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn! Và khẳng định: Tiếng thơm còn mãi, bia miệng không mòn!
Dân gian có câu: Trăm
năm bia đá cũng mòn / Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ! Câu văn của
Trương Thái Bảo tạo dựng một thế đối lập về nội hàm, đối xứng về hình thức. Với
quân dân nhà Trần, thì tiếng thơm còn mãi,
bất tử cùng thời gian. Với kẻ thù thì nỗi nhục thua trận cùng lời chê bai của
hậu thế, bia miệng không mòn, không
bao giờ rửa sạch! Thật là chí lý và khách quan!
Có thể nói
không ngoa rằng Trương Hán Siêu đã tái hiện một chiến công hiển hách của quân
dân nhà Trần bằng một đoạn văn thật hào sảng, rất tiêu biểu cho âm hưởng thơ
văn đời Lý Trần. Hình ảnh một dân tộc bất khuất, không cam tâm làm nô lệ, bừng
lên sáng chói ở đoạn văn này. Vua Trần Minh Tông trước đó viết rất hay về sông
Bạch Đằng qua bài thơ Bạch Đằng Giang
của ông. Một số tác giả khác như Nguyễn Sưởng, với bài thơ Bạch Đằng giang, Nguyễn Trãi, với bài thơ Bạch Đằng hải khẩu, rồi Vũ Mộng Nguyên (Nguyễn Mộng Tuân) với Hậu Bạch Đằng giang phú, cũng viết rất
hay về Bạch Đằng, nhưng bài phú của Trương Hán Siêu mới là tác phẩm thể hiện
được đầy đủ nhất, sinh động nhất những tinh túy của nghệ thuật văn chương khi
viết về chiến công trên sông Bạch Đằng. Bởi tài hoa chăng? Bởi tác giả là người
trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến chiến công này, khi còn làm trợ thủ cho Hưng
Đạo Vương chăng? Hay bởi sự thăng hoa của cảm xúc thiên phú cùng sự linh ứng
của tổ tiên ngầm giúp rập chăng?
Đoạn cuối
của bài phú, đột nhiên âm hưởng chuyển sang một cung bậc khác, trầm lắng suy tư
chiêm nghiệm:
Khách chơi sông chừ hổ
mặt,
Người hoài cổ chừ lệ
chan.
Câu văn “biền ngẫu” ( hai con ngựa sóng đôi) về hình thức,
nhưng tình ý chỉ là một. Khách chơi sông, với người hoài cổ, chẳng phải là tác
giả bài phú này hay sao? Một người từng trải mấy đời vua Trần, từ thời hưng
thịnh đến suy vong, nhìn cảnh mà trông về quá khứ xa xôi đẹp đẽ, lại chợt nghĩ
đến trách nhiệm của mình, giờ đây, cảm thấy hổ thẹn, hổ mặt với tiền nhân, với những anh hùng chiến sĩ đã hy sinh anh
dũng ở đây. Đó là một sự hổ mặt của
kẻ còn có nhân cách, còn có thiên lương, liêm sỉ, chân thành mà xúc động. Bởi
thế, nên người hoài cổ chừ lệ chan,
cũng là một điều phải lẽ…
Rồi vừa đi vừa ca rằng:
Sông Bạch Đằng vẫn còn đây, luồng to sóng lớn dồn về bể
Đông. Những người bất nghĩa tiêu vong, chỉ còn mãi lưu danh những anh hùng hy
sinh vì nước. Đó chính là sự công minh của lịch sử. Rồi ca ngợi các vua Trần,
Thánh Tông và Nhân Tông, ca ngợi dòng sông Bạch Đằng mãi đi cùng lịch sử hào
hùng của dân tộc. Kết luận, tác giả viết:
Giặc tan muôn thuở
thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt
mình đức cao!
Chiến thắng Bạch Đằng quyết định thắng lợi cuộc chiến tranh
chống giặc Nguyên Mông lần thứ ba này, đương nhiên có nhiều yếu tố hợp thành.
Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh vào chữ “Đức”, Đức
cao. Ở đây, Trương Hán Siêu thể hiện một quan điểm hoàn toàn biện chứng. Đức ở đây được xem như là một phạm trù
mở, là tài năng chỉ đạo chiến tranh kiệt xuất của Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn, là ý chí của các vua Trần, là sự đoàn kết của tầng lớp lãnh đạo, là quân
dân một dạ, là nhiệt tình yêu nước và ý chí quyết chiến quyết thắng của cả dân
tộc, là sự giúp đỡ của tổ tiên, cùng sự linh ứng của trời đất…Địa lợi (đất hiểm) đương nhiên là rất quan trọng, nhưng quyết định thắng
lợi, tựu chung và tiên quyết, vẫn là ở Đức
cao vậy!
Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu
là một tráng ca bất hủ. Âm điệu của bài phú chuyển hóa theo mạch tâm tư, khi
thênh thang tiêu sái, khi khắc khoải ngậm ngùi, khi cuộn sôi hào sảng, phơi
phới tự hào, lại khi lặng lẽ trầm lắng suy tư. Mạch văn linh hoạt, dài ngắn xa
gần, biến ảo thực hư, diễn tả rất thành công sự chuyển đổi sinh động của cảm
xúc. Người xưa bảo rằng đây là một áng văn tuyệt kỹ, được xếp vào hàng Thiên cổ hùng văn, quả cũng không ngoa!
Để lại cho đời một áng văn bất hủ, Trương Hán Siêu chẳng phải cũng đã thành bất
hủ với trời đất đấy ư?
Hà Nội 4-2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét