Lê Thiếu Nhơn bồi hồi dự phần, lắng nghe
và trân trọng
Đọc
Thi ca nết đất, nhà xuất bản Thời
đại, 2011
Vũ Nho
Từ lâu, tôi coi
Lê Thiếu Nhơn như một cây bút phê bình đáng đọc bởi sự chừng mực, trí tuệ và tinh tế của anh. Hầu
hết các bài viết trong tập, Lê Thiếu Nhơn đã công bố trên báo viết và báo mạng.
Khi tập sách được loan tin phát hành, tôi đã đặt ngay tại Vinabook. Nhưng do
trục trặc kĩ thuật, nên việc mua không
thành. Khắc phục được kĩ thuật thì lại được nhà sách thông báo hết. Vì vậy mãi
cuối tháng năm mới mua được sách.
Tôi đã đọc rất kĩ những bài viết của
Lê Thiếu Nhơn. Bởi vì muốn viết thì phải
đọc kĩ, viết về một người làm việc cần mẫn, thận trọng như Lê Thiếu Nhơn lại
càng phải đọc kĩ. Cũng cần phải thêm một tý là khi đọc lại các bài viết của Lê Thiếu Nhơn hứng thú trong tôi hầu như không giảm.
Phải khẳng định là tác giả của Thi ca nết đất đã làm việc rất cần cù và
có trách nhiệm với những gương mặt thơ mà anh động bút. Chẳng hạn với Bùi Kim
Anh, Lê Thiếu Nhơn “phấp phổng” rồi “vừa vội vàng, vừa nghiêm túc lật từng trang”.
Với Yến Lan, anh “ngụp lặn với những câu
thơ dài ngắn khác nhau”. Với Nguyễn
Thị Ánh Huỳnh thì “tẩn mẩn đọc liền mạch
hơn 100 bài thơ”. Với Thái Thăng Long, anh thú nhận “ Tôi đã đọc đi đọc lại “Đồng hành thế kỉ” nhiều lần”. Lê Thiếu Nhơn
còn “ kiên nhẫn tìm đọc toàn bộ thơ Trần
Đăng Khoa”, bỏ ra “ hơn mười năm theo
dõi hành trình sáng tác của Lê Xuân Đố”, “ nhiều lần giở đi giở lại “ Gió vẫn thổi về từ biển” của Lê Quang
Trang, “ bỏ nhiều ngày, đi lòng vòng
quanh hai cô gái đẹp có mỹ danh là Áo đỏ và Đợi” của Vũ Quần Phương… Một
chỗ khác anh thú nhận : “ nhiều năm lọ mọ
nghiền ngẫm hết thi tuyển này đến thi tuyển khác” ( trang 41).
Có lẽ chính vì đọc kĩ như vậy, cộng
thêm với những tư chất cần thiết của một người viết phê bình, Lê Thiếu Nhơn đã
để lại những dấu ấn và đóng góp nhất định trên những trang viết. Hai mươi lăm
gương mặt thơ Việt Nam
hiện đại không phải là xa lạ đối với công chúng. Có những nhà thơ đã quá nổi
tiếng từ lâu như Vũ Quần Phương, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Duy,… và những nhà thơ
khác thì cũng đã được nhiều nhà phê bình bàn thảo. Tuy vậy, Lê Thiếu Nhơn vẫn
có một góc nhìn, một cách cảm và những phát hiện ít nhiều so với đồng nghiệp.
Một vài trong những tìm tòi của Lê Thiếu Nhơn có thể chưa thật trúng, đôi ba
những phát hiện của Lê Thiếu Nhơn có thể chưa thật chính xác, thảng hoặc những kết luận của Lê Thiếu Nhơn có
khi còn khắt khe và chưa thật công bằng,…Nhưng phải ghi nhận cố gắng tìm tòi,
phát hiện, và những kết luận mà Lê Thiếu Nhơn đã trình làng. Và cần khẳng định
rằng nhiều điều trong số đó đã làm nên sự gợi mở và cuốn hút, thuyết phục
người đọc.
Với mỗi tác giả, dù là nổi danh hay
chỉ mới đang chập chững chặng đầu của con đường sáng tạo dài dằng dặc, Lê Thiếu
Nhơn đều trân trọng, nâng niu. Người viết cố gắng tìm trong những ngổn ngang
chữ nghĩa, tâm trạng để chắt ra những nét riêng, những đóng góp khác biệt và cả chỗ mạnh, yếu của từng người. Chẳng hạn
với Nguyễn Thị Ánh Huỳnh, anh nêu đặc điểm “ trọng ý chứ không phải trọng lời”, còn với nhà thơ lão thành Hoàng
Yến, anh nhận định “vẻ đẹp của thơ ông
nằm ở sự tự vấn”. Thái Thăng Long thì thơ “mạnh ở nhạc tính và những ý niệm thế sự”. Ưu điểm của thơ Hoàng
Việt Hằng “nằm ở sự chân thành, chân
thành quan sát, chân thành gánh vác và chân thành dày vò”. Thảo Phương thì
“ nỗi xao xác ngưng tụ bởi ba trạng thái
: dấn thân, bịn rịn và hụt hẫng”.
Quan sát thơ của Nguyên Sa ở giai đoạn cuối, anh chứng minh “những bài thơ sau chót của Nguyên Sa hầu như
không dành cho âm nhạc, chỉ dành cho những chột dạ”. Với Vũ Quần Phương thì
“ Cái tài của Vũ Quần Phương là có thể
dùng những chi tiết rất cũ, hình ảnh rất cũ để tạo thành những câu thơ mới”.
Làm công việc thống kê không phải là thích thú, và chắc cũng sẽ làm mệt bạn
đọc, nhưng tôi thấy chưa thật an tâm, nếu không tiếp tục trưng ra những ví dụ về sự cố gắng tìm tòi
của Lê Thiếu Nhơn khi viết về mỗi nhà thơ. “Thơ
Phạm Sỹ Sáu có thế mạnh ở khẩu khí…” và “ hầu hết thơ Phạm Sỹ Sáu đều có đặc tính càng dài càng thú vị”. Về thơ của Trương Nam Hương “ Thơ anh trong trẻo không lấm chút bụi đường. Thơ anh trang nhã không
vương chút xô lệch”. Thơ Trang Thanh “
những câu ngăn ngắn vồi vội thì hay, mà những câu dông dài đắm đuối thì nhạt”.
Còn Nguyễn Duy thì “ Thế mạnh của Nguyễn
Duy nằm ở sự nhận diện nhanh nhạy và khái quát sắc sảo”. Phùng Khắc Bắc “ mạnh về suy tưởng mà không mạnh về chất thơ”; “ Phùng Khắc Bắc không chọn góc nhìn làm nên lịch sử, cũng không chọn
góc nhìn chịu đựng lịch sử. Phùng Khắc Bắc chọn góc nhìn gánh vác lịch sử”…
Tôi nghĩ rằng nguyên sự cần mẫn, lọ mọ
đọc rồi ngẫm ngợi, tìm ra những nét riêng của mỗi nhà thơ đã là một sự công phu
rất đáng biểu dương. Càng đáng biểu dương hơn nữa là Lê Thiếu Nhơn không mấy
khi đưa ra nhận định suông. Bao giờ kèm những nhận định, đánh giá, Lê Thiếu
Nhơn cũng đưa ra các dẫn chứng, phân tích. Và trong hầu hết các trường hợp,
những chứng minh, phân tích của Lê Thiếu
Nhơn dễ được người đọc đồng tình. Sở dĩ như vậy, theo tôi có một lí do hết sức
căn bản, đó là sự chân thành của Lê Thiếu Nhơn. Các nhà thơ mà anh coi là đối
tượng tìm hiểu bao giờ cũng được anh trân trọng “ tôi chào đón 25 gương mặt như một sự tao ngộ hữu duyên”. Tuy nhiên,
nói như vậy là chưa đủ. Bên cạnh sự trân trọng, bản thân Lê Thiếu Nhơn cũng là
một cây bút thơ, anh thấu hiểu những trăn trở, băn khoăn và cả nỗi nhọc nhằn
của người cầm bút. Và sau hết, Lê Thiếu Nhơn có cảm nhận tinh tế và diễn đạt
uyển chuyển của một ngòi bút phê bình. Chính những yếu tố đó đã làm cho những
trang viết của Lê Thiếu Nhơn lấp lánh, hấp dẫn và lôi cuốn.
Lê Thiếu Nhơn có lí khi viết rằng : “
phê bình thơ không hoàn toàn mang tính khen chê”. Nhưng dù là không hoàn toàn
như thế, thì khen chê trong phê bình là không thể tránh được. Dù có chủ tâm cố
ý né tránh thì cũng không một ai thoát được khen chê. Trừ phi đó là những bài
viết vô thưởng vô phạt. Tôi vẫn theo đuổi một quan niệm từ khi bắt đầu cầm bút
chập chững bước vào phê bình thi ca rằng người viết ít nhất cũng phải chọn ra
được những câu thơ hay nhất của tập thơ, của tác giả để biểu dương, ca ngợi.
Một bài phê bình thơ mà chỉ nói chung chung hoặc tệ hơn, chỉ nêu ra và biểu
dương các câu thơ trung bình, không tiêu biểu thì là một bài phê bình thất bại.Và
thật thú vị khi tôi thấy Lê Thiếu Nhơn thể hiện giống như sự mường tượng của
mình. Hầu hết các câu thơ Lê Thiếu Nhơn chắt chiu của mỗi gương mặt, đều là
những câu thơ hay, ấn tượng của mỗi người. Và Lê Thiếu Nhơn không ít lần tự tin và quả quyết khẳng định
những câu tài hoa, những bài thơ hay nhất của người anh đang viết. Chẳng khó
khăn gì, có thể dẫn ra bài thơ “ Mắt mẹ rợn da trời” “vững vàng một cấu tứ độc lập” của Lãng Thanh, bài thơ “Lần đầu tiên” “đóng dấu chất lượng “thương hiệu” Lò Ngân Sủn”, bài thơ “ Đỉnh núi”
“là
một điểm nhô lên giữa những mô, những gò, những đồi của thơ Trần Đăng
Khoa thời vất vả làm người lớn”, bài thơ “ Chuyện vãn cùng hoa” của Lê Văn Ngăn. Đôi lúc cao hứng lên, Lê
Thiếu Nhơn còn quả quyết tuyên bố xanh rờn : “ Bốn cái nhìn tinh tế thực sự làm nên bài thơ “Ra đi”, bài thơ “Ra đi”
thực sự làm nên tập thơ “ Một chấm xanh”, tập thơ “Một chấm xanh” thực sự làm
nên nhà thơ Phùng Khắc Bắc”.
Khen đã vậy. Lê Thiếu Nhơn cũng khá
thẳng thắn trong việc chê. Khen chê đều khó như nhau. Nhưng theo tôi thì chê
vẫn khó hơn một bậc. Bởi vì chê đúng đã là khó, nhưng chê như thế nào để người được
(bị) chê cảm thấy lọt tai lại càng khó
hơn. Lê Thiếu Nhơn khá thẳng thắn, và cũng không kém phần khéo léo khi chê.
Viết về Lò Ngân Sủn, Lê Thiếu Nhơn khẳng định “phương pháp quy nạp chiêm nghiệm” của nhà
thơ, đồng thời chê nhẹ nhàng “ Những chiêm nghiệm rời rạc đưa vào thơ thì
thường đơn điệu và hơi nhiều lời”. Viết về một nhà thơ nữ trẻ, Lê Thiếu
Nhơn chân tình “ Tôi e ngại cái tạng của
chị không hợp với những lập ngôn gân guốc”. Về một nhà thơ nữ khác : “ Đáng tiếc, trò chơi ngôn ngữ của chị càng
cầu kì, càng nao núng”. Với nhà thơ Lê
Văn Ngăn thì “ không ít bài thơ của ông phải khuân vác bao
nhiêu chữ nghĩa mang hương vị của thi ca chứ không phải câu thơ như mong muốn”.
Với nhà thơ Vũ Quần Phương, mặc dù không giấu sự
ngưỡng mộ, nhưng Lê Thiếu Nhơn vẫn chỉ ra những chỗ vừa mạnh vừa chưa mạnh của
bậc trưởng thượng. “ Ông luôn thể hiện
năng lực bác sĩ trong nghề thơ, ông tự bắt mạch cho cảm xúc của mình, rồi ông
tự chữa bệnh cho chữ nghĩa của mình. Vì ông nghĩ nhiều quá, khiến nhiều hình
tượng cứ khô cong lại”. Tôi đoan chắc nhà thơ Vũ Quần Phương cũng phải bật
cười trước sự ví von này : “ Nếu mỗi bài
thơ là một cô gái, thì cô gái của Vũ Quần Phương thường có lông mày đẹp hay nụ
cười xinh, mà lại luôn đội nón xụp hoặc đeo khẩu trang. Tội nghiệp cho người
nào mà nặng lòng với cô gái kia”. Với thơ Nguyễn Duy, thơ Trần Đăng Khoa,
Lê Thiếu Nhơn có những phân tích kĩ lưỡng và có những khen chê cũng khá rõ
ràng. Tôi rất khâm phục sự mạnh dạn,
thẳng thắn và sòng phẳng của người viết. Nhưng tôi vẫn băn khoăn rằng đánh giá “Cuộc
“Đi đánh thần hạn” không thành công”,
và trường ca “ Khúc hát người anh hùng”
chỉ còn lại bùi ngùi hai câu ấm áp lòng
người” như thế liệu đã chính xác và có quá chặt chẽ hay không? Những nhận xét về thơ
Nguyễn Duy đành rằng có nhiều điểm đúng,
nhưng về tổng thể cũng chưa đánh giá đầy
đủ những nét tài hoa cùng với những đóng
góp của Nguyễn Duy. Và ấn tượng của tôi hình như bữa ấy sự rộng lượng đi vắng mà chỉ còn khe
khắt ở nhà.
Các tên gọi của bài viết Lê Thiếu Nhơn
đặt khá ấn tượng và giàu chất thơ, giàu sức gợi. Phải nói là tôi rất nể cách
đặt tên như vậy. Nhưng quả thật, tôi
không thông lắm với trường hợp
Thái Thăng Long. Tác giả đặt tít: “ Thái
Thăng Long yêu một nửa, ghét cũng dành một nửa”. Đó là câu thơ của nhà thơ viết
về tâm trạng khi nhìn “cái mặt của
mình”. Nhưng nếu là thơ nói chung thì cái tỉ lệ 50 phần trăm yêu ghét như thế
là vô nghĩa. Bởi vì yêu ghét trăm phần, ghét yêu tột độ, có khi thơ cũng chả…ra
gì nữa là. Vậy thì có nên lấy cái câu thơ viết về khoảnh khắc nhìn mặt mình mà đặt cho cả đời thơ Thái
Thăng Long? Tôi cũng không rõ lắm sự lảo
đảo ngược dòng thi ca của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ họ Trần khi lảo đảo thì
là thi sĩ, còn khi nghiêm ngắn thì là “cán bộ chân chính”. Nhưng tại sao lại “ngược dòng thi ca”? Trần Đăng Khoa xuôi
dòng và hòa nhập chung vào dòng chảy thi ca bằng dáng đi “lảo đảo” mới đúng
chớ? Sợ rằng xuôi dòng không ấn tượng
mấy nên đặt ngược dòng chăng?
Có thể còn có những điều khác cần trao đổi, bàn bạc thêm với tác giả,
nhưng phải chân thành mà nói rằng lâu rồi, tôi mới đọc một một ấn phẩm phê bình thú vị và hấp dẫn như Thi ca nết đất. Việc gõ bản phím viết ra
những chia sẻ này cũng là một cách bày tỏ sự mến yêu, trân trọng của riêng mình.
Hà
Nội, tháng 6 năm 2011
Rất thú vị lời binh: “là một điểm nhô lên giữa những mô, những gò, những đồi của thơ Trần Đăng Khoa thời vất vả làm người lớn”
Trả lờiXóa.
Khoa ơi là Khoa, làm người đương thời khổ hỉ!
Đấy là lời của Lê Thiếu Nhơn ! Cám ơn bác đã đọc và sẻ chia! Riêng chú Khoa thần đồng thì...chả biết là Khổ hay sướng. Cái gì cũng có hai mặt mà! Khà khà khà...
Trả lờiXóa