Chử Văn Long
TẠM
BỢ
Ngày chúng ta thương nhau về ở chung nhà
Có gian buồng không đủ mua cánh cửa
Anh nhặt nhạnh gỗ thùng, gỗ chợ
Miếng bằng gang tay, miếng khuyết tựa
vành trăng
Để ghép nên cánh cửa
Với ý nghĩ một thời gian tạm bợ
Khi nào có sẽ thay cánh cửa vững bền…
Bây giờ em không còn, cái tạm bợ lại còn
nguyên
Đau xót làm sao đời người nhiều khi ngắn
hơn những gì tạm bợ
Đau đớn biết bao mỗi khi tay anh đụng
vào cánh cửa
Tạm bợ còn đây mà em đã đâu rồi?
5/12/2002
Lời
bình của Vũ Nho
Khi lần đầu tiếp
xúc bài thơ Tạm bợ trong
dạng chép tay, không hiểu sao, tự
nhiên, tôi nhớ ngay đến câu thơ của Trần Đăng Khoa viết hồi ở nước Nga: “Cái còn thì vẫn còn nguyên. Cái tan dù tưởng
vững bền cũng tan…”. Phải chăng vì những câu thơ này đều là triết lí về cái
còn, cái mất. Bài Tạm bợ không nói
trực tiếp về tan, không tan,
nhưng nói về điều nghịch lí là cái tạm
bợ thì còn, mà cái tưởng vĩnh cửu,
vững bền thì mất. Và đau xót và đau đớn ở đây chính là ngày ngày, người viết
đối mặt với cái chứng tích tạm bợ của
một thời.
Chử
Văn Long là nhà thơ hay nói đến
“những số phận nhỏ nhoi, khuất lấp, u buồn” ( Lời tác giả trong Tuyển thơ văn chọn lọc Chử Văn Long) và
nhà thơ không ít lần thốt ra cảm khái về sự ngắn ngủi của đời người, nhất là từ
khi người vợ tảo tần thương mến của anh ra đi mãi mãi.
Cuộc
đời ngắn quá và buồn quá
Như giấc mơ dài
Tôi
mới thấy đời người giống đời hoa quá ngắn
Thương hoa
Trong
bài thơ này cái ngắn ngủi của đời người được so sánh với cái ngắn ngủi của sự
tạm bợ, một sự so sánh rứt ra từ nỗi đau mất mát:
Đau
xót làm sao đời người nhiều khi ngắn hơn những gì tạm bợ
Tạm
bợ ở đây có chứng tích hẳn hoi. Đó là
một thời nghèo đói, túng bấn của chính nhà thơ, và đâu chỉ riêng anh. Căn buồng
hạnh phúc nhưng không có cánh cửa. Nên
cánh cửa đó được làm tạm bợ bằng những mảnh, những mẩu gỗ vụn chắp vá:
Anh
nhặt nhạnh gỗ thùng, gỗ chợ
Miếng bằng
gang tay, miếng khuyết tựa vành trăng
Để ghép nên
cánh cửa
Nhặt
nhạnh gỗ thùng, gỗ chợ, miếng nhỏ, miếng to, miếng lành, miếng khuyết, bằng tình yêu đằm thắm, anh đã ghép, đã làm
nên tấm cửa buồng. Hệt như tinh thần của
câu ca dao “…gian khó chẳng nề. Một trăm
chỗ lệch cũng kê cho bằng”. Anh tự hứa coi đó là tạm bợ, sẽ thay bằng cánh cửa
vững bền.
Nhưng cái tạm bợ ấy mãi còn. Còn người
vợ, người “gánh chịu” đớn đau thử thách của người chồng ( người được ví như cây
cột thu lôi, nhưng “Nơi dập sét cuối cùng
lại là nơi tiếp đất”), người mà anh mãi mãi biết ơn, thương mến, cảm thông,
tôn thờ…thì lại không còn nữa.
Ở đây có hai lần nhà thơ nhắc đến nỗi
đau, gậy hiệu quả nghệ thuật về nỗi đau chồng chất:
Đau xót làm
sao đời người nhiều khi ngắn hơn những gì tạm bợ
Đây
là nỗi đau chung về kiếp người, khác nào Nguyễn Du xưa từng than : Đau đớn thay phận đàn bà.
Và
nỗi đau đớn riêng:
Đau
đớn biết bao mỗi khi tay anh đụng vào cánh cửa
Tạm bợ còn
đây mà em đã đâu rồi?
Không phải là cánh cửa nhà tạm bợ, mà là cánh cửa buồng, cánh cửa
mở vào nơi hạnh phúc riêng tư chồng vợ, những tưởng keo sơn vững bền mãi mãi
trăm năm.
Đau thấm thía tận cùng nỗi đau mất mát, Chử Văn
Long đã neo vào trái tim bạn đọc một bài thơ giản dị mà ám ảnh. Không phải ngẫu
nhiên mà chị Mỹ Lâm tôi quen, nghề nghiệp không liên quan gì đến thơ văn, lại
trân trọng chép bài thơ này vào sổ tay. Và khi thay quyển sổ mới, chị cũng
không quên chép lại cạnh bài thơ Tiễn con
gái về nhà chồng của Nguyễn Hoàng Sơn và Con hãy yêu người yêu thương của văn hào Victo Huy gô người Pháp.
Hà Nội, 13 tháng 5 năm 2012
Bài bình thơ này hay quá, cảm ơn Vu Nho đã đăng lại nhớ hồi tháng 2 năm 2012 cùng đi lên Hòa Bình dự buổi giao lưu "Tuổi trẻ Hào Bình và cựu chiến binh Tây Tiến" Nhân dịp ngày truyền thống trung đoàn 52 Tây Tiến (27/2/1947-27/2/2012). Nghe Mỹ Lâm đọc bài này từ trong sổ tay thật là cảm động... Thoáng cái đã hơn một năm trôi qua...
Trả lờiXóaThời gian nhanh quá!
XóaHồi nào chúng ta học cấp 3 Nho Quan A với nhau. Nay thì đứa trẻ nhất cũng đã bạc đầu!
Thi thoảng ghé quán chơi nha!
Vũ Nho