Vũ Nho đang đọc tham luận tại Mạo Khê
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÒ TRONG QUẦNG SÁNG
Đọc Ánh
đèn lò của Vũ Thảo Ngọc, nhà xuất bản Lao Động, 2016
Vũ Nho
Vùng than có một đội ngũ viết văn hùng hậu kể từ khi nhà văn
Võ Huy Tâm khai sinh tác phẩm “Vùng mỏ” đến nay. Trong những tên tuổi quen biết
với bạn đọc cả nước, Vũ Thảo Ngọc là một cái tên khác đặc biệt. Đặc biệt vì chị
trưởng thành từ một người thợ. Hơn thế nữa, đặc biệt vì sức viết của chị. Xuất
hiện năm 1997 với tập truyện ngắn “Đêm chuyển mùa”, đến năm 2016, chị đã có 18
đầu sách trình làng. Một điều đặc biệt nữa là cây bút nữ này rất “đa năng”. Truyện
ngắn, tiểu thuyết, thơ, bút kí, nghiên cứu phê bình, chị đều đã thứ sức. Mặc dù,
sở trường của chị là truyện ngắn và tiểu thuyết. Riêng về lĩnh vực tiểu thuyết,
đây là tập sách thứ 5 của tác giả.
Về những người
công nhân mỏ đã có nhiều nhà văn của vùng mỏ viết thành công. Nhưng viết về thợ
lò, những người “làm việc âm phủ, ăn cơm dương gian” bằng một tiểu thuyết dày dặn thì có lẽ Vũ Thảo
Ngọc là nhà văn đầu tiên. Đúng như lời giới thiệu của anh Đoàn Kiển, người tự
nhận là “đồng nghiệp của gã thợ lò Đào Văn Đáo và Giám đốc mỏ Làng Bang Vũ Quốc
Nam” : “Đã có truyện ngắn, truyện dài viết
về thợ lò nhưng chưa có chuyện nào chạm sâu đến công việc chuyên môn dưới lòng
đất cùng với đời sống của một gia đình và cộng đồng thợ lò ở phố thợ như “Ánh
đèn lò” của nữ nhà văn thợ mỏ Vũ Thảo Ngọc” (Ánh đèn lò lấp lánh như những
vì sao).
Có lẽ không
ai là không biết đến bài hát nổi tiếng về thợ lò qua giọng ca có một không hai
của ca sĩ Trần Khánh: “Tôi là người thợ
lò. Sinh ra trên đất mỏ…”. Nhưng nữ nhà văn không chọn nhân vật thợ lò trung tâm là con trai của một người thợ mỏ. Chị
lại chọn Đào Văn Đáo, một chàng trai nông thôn ở làng Trong thuộc tỉnh Đông. Cái
cậu trai nhà quê “hiếu động, mạnh bạo” nghịch ngợm, gan lì với các trò cuốc chuột, quấn
trăn làm xiếc với gánh xiếc rong, lúc nào cũng đói… Nhân vật sau này trở thành
anh hùng, nhưng có một lí lịch rất bình thường, thậm chí dưới bình thường.
“Vốn được nuông chiều vì út ít nên cậu bé Đáo
phá phách nghịch ngợm nhất làng, học hành thì chểnh mảng, vì thế mới đến lớp 5
đã nổi tiếng quậy phá trong làng. Học đến hết lớp 7 thì ở nhà theo trâu cùng bố.
Cái lí của Đáo đơn giản là, học chỉ để tính công điểm, thế thì học đến lớp năm
là đủ tính được công điểm cho thày u rồi. Mà học mãi có hết đói đâu. Năm nào
nhà cũng thiếu gạo, đói thế học nhiều làm gì”. ( tr.37). Cậu trai ấy đi ra
mỏ, đi làm thợ lò với suy nghĩ thật hồn nhiên, giản dị : “Đi làm có sổ lương, sổ gạo, ngoài mỏ rộng, mát mẻ lắm. Thợ lò còn được
hăm bốn cân gạo cơ. Có nhiều gạo con gửi về cho thầy mẹ đỡ được đận đói ngày ba
tháng tám nhá” ( trang 38). Người
trai làng chưa bao giờ đi xa đã ra tận vùng mỏ “đến chân trời lạ”. Những khó khăn,
thử thách có làm cho anh định bỏ về quê, nhưng lòng tự trọng và lời hứa sẽ làm
việc để có gạo đỡ đần bố mẹ đã làm cho chàng trai trụ lại và gắn bó cả cuộc đời
với hầm lò, với mỏ. Không những là một thợ mỏ có gia đình êm ấm, anh Đáo cù mì
còn trở thành người thợ xuất sắc, “lên được
cái chức anh hùng” như lời bà Huệ tổ trưởng dân phố.
Bên cạnh anh
thợ lò tên Đáo được tác giả viết kĩ về quá trình trưởng thành, về việc xây dựng
gia đình, tự hào vì con cái thành đạt, tập quen với nếp sống ngoài lò khi sắp cầm
sổ hưu, người đọc còn biết đến những người thợ khác. Anh Cạnh đẹp giai nhất tổ,
tán vợ khoe mình là “kĩ sư lò”, bị cô nàng chê khi biết anh chỉ là một minnơ (
thợ lò). Chàng Huyên nghệ sĩ quyết tâm tán đổ cô Mận nhà sàng, cậu Hoạch “tào phào” hi sinh trong sự cố “bục
nước”. Anh Chúng mất cả vợ con trong tai nạn đắm tàu khi về quê ăn tết, gượng dậy
cùng với cô Lý ( cũng mất chồng trong tai nạn đắm tàu) làm lại cuộc đời. Chàng
thợ lò tên Thông có biệt danh Thông Rượu “cuốc lò thuộc diện vô địch, nhưng uống rượu cũng vô địch của mỏ Làng Bang
luôn”. Rồi anh chàng Tuyn hiền lành “ nhờ liên hoan tổ” mà thành ra có vợ,
trong khi “suýt nữa thì về quê kiếm vợ
không xong ấy chứ”. Trong những người thợ ấy, có tay thợ lò “lập dị”, thu
nhập cao nhất mỏ, nhưng để nhà cửa trống tuềnh. Cái hạnh phúc riêng của anh ta
là “cứ
để tiền ở ngân hàng, mỗi tuần ra “quẹt thẻ” để biết số tiền của mình là bao nhiêu cho…sướng. Cũng là hạnh phúc
riêng của mình mà” ( tr. 151). Còn có
cả một tay Phô gian manh, lươn lẹo. Tuy là con của một ông thợ lò già của mỏ nhưng
“Hắn có giọng nói nửa nam nửa nữ, véo von
mà đầy mĩ từ sáo rỗng”. Và cánh thợ không ưa Phô vì anh ta chả có tẹo nào “chất
thợ”, làm quản đốc mà ăn chặn tiền của mọi người…
Viết về người
thợ lò, nhà văn cho bạn đọc thấy cái nghề vất vả, nặng nhọc nhất của vùng mỏ. Một chi tiết thôi cũng đủ cho người đọc hình
dung ra nỗi vất vả đó. “Dù đã có những
chiếc ống thông gió to đùng thổi sâu vào trong lò gió tươi để duy trì dưỡng khí
mà thở nhưng áo của cánh thợ chống cuốc lúc nào cũng ướt sũng mồ hôi. Những chiếc
áo có thể vắt ra cả vài lít nước trong một ca lao động” ( tr. 145). Không
chỉ vất vả, nặng nhọc mà nghề thợ lò còn là nghề nguy hiểm. Các tai họa luôn rình
rập họ. Bục nước, sập lò có thể xảy ra bất kì lúc nào “Chỉ khi nào được ra “nuy” ở nhà tắm công cộng mới có thể nói yên tâm
sau một ca làm việc”.(tr. 65). Những người vợ thợ lò khi chồng đi làm lo lắng,
bồn chồn không khác các chị có chồng là phi công bay lên bầu trời. Chỉ khi chồng
về nhà mới thực sự an tâm. Có lẽ vì thế chăng nên việc lấy vợ của cánh thợ lò cũng…nhiều
chuyện để nói. Thợ lò mang tiếng là nhát gái, bởi vì bàn tay thợ khác thường, nên
ngày đầu không dám chìa tay để nắm tay bạn gái. Bàn tay cũng dài, cũng nuột, cũng khỏe như muôn triệu
triệu bàn tay bình thường khác. Nhưng bàn tay thợ lò “có cơ man những vết chằm xanh lam tím ngang dọc mảnh như sợi chỉ đan chằng
chéo nhau trên bàn tay[…] Những vết chằm từ mảnh những hòn than kíp lê găm vào
da thịt đã tạo nên màu lam tím, thoạt nhìn ngỡ đó là một bệnh lạ gì đó, không dám gần” ( tr.
69). Không phải là người công nhân mỏ, gần gũi những người thợ lò, không thể viết
những dòng văn chi tiết, cụ thể như thế.
Có hai nhân vật
lãnh đạo được nhà văn quan tâm động bút. Ông phó giám đốc tên kèm biệt danh “ông Chu hắc xì dầu”, ông hay
quát nạt cấp dưới nên ông tự là mất thanh danh vì những điều vụn vặt. Ông chỉ
hiện ra thoáng qua để làm nổi bật hình ảnh giám đốc Nam hòa đồng cùng mọi người,
“ngồi bệt” với cánh thợ lò. Nam là người được học hành, được ra nước ngoài, có
thể công tác ở Hà Nội. Nhưng anh đã chọn mỏ làm nơi gắn bó. Vì những người thợ thiệt thòi hơn mình, Nam đã
luôn luôn nghĩ đến các công nhân dưới quyền. Anh cho xây cầu cho công nhân đi lại
dễ dàng, xây nhà văn hóa, tổ chức sinh hoạt
văn nghệ, thể thao. Anh chạy đôn đáo
để làm “ngoại giao nhân dân” lo cho anh em được túi quà Tết xôm. Vốn là dân địa
chất lãng mạn như những nhà thơ. Và Nam cũng thực sự làm thơ, được bạn bè tôn làm
“thi sĩ”.Vợ chồng đằng đẵng xa nhau. Nam đã khéo léo động viên vợ. Và anh đã có
cái tâm, cái tầm hơn các vị giám đốc khác. Ông giám đốc khác chỉ lo sản xuất
nhiều than là hoàn thành nhiệm vụ. Còn giám đốc Nam thì lo xây trường học, trạm
xá, nhà văn hóa nâng cao đời sống thợ mỏ, tác thành đôi lứa cho họ, bỏ qua những
lỗi lầm trong sinh hoạt. Người giám đốc gắn bó sâu sắc đó được công nhân tin tưởng
vì anh không chỉ là cấp trên (thường là xa cách). “Giám đốc Nam luôn là một người anh, người bạn đáng kính, là một diễn giả
số một trên thế giới, với cái giọng truyền cảm của anh, cái ánh mắt luôn hướng
về người nghe luôn làm cho những người đối
diện được chia sẻ và tôn trọng. Cái ấm áp tình thân đó đã lưu giữ trong họ
(công nhân) những tình cảm chân thật xen lẫn kính trọng” ( tr.105). Hai nhân
vật Đáo và Nam đã là những thợ lò và lãnh đạo mà anh Đoàn Kiển tự nhận là đồng
nghiệp, chứng tỏ sự thành công của tác giả.
Trong lời bạt,
tác giả bộc bạch “mới có ba lần được đi
thực tế vào lò chợ cùng cánh thợ lò ở mỏ than Nam Mẫu, mỏ than Khe Chàm và mỏ
than Mạo Khê khi còn là sinh viên trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội”. Và do
đó viết về thợ lò là một công việc khó khăn. Nhưng tình yêu những người thợ vĩ đại
âm thầm làm việc nơi âm phủ tối thui đã khiến tác giả quyết tâm viết về họ. Với
những năm làm thợ, gần gũi những người thợ mỏ, với lòng kính trọng những người
thợ lò, và với vốn sống phong phú tích lũy trực tiếp và gián tiếp tác giả Vũ Thảo
Ngọc đã thành công khi dựng lên một tập
thể những người thợ lò, nhiều số phận, nhiều tính cách khác nhau, nhưng đều gắn
bó với nghề, với mỏ. Đánh giá của một người
gắn bó với mỏ, là đồng nghiệp của thợ mỏ thật khách quan, khi nhận xét tác giả “đã
vận dụng ngôn ngữ của thợ lò, mô tả rất đúng và sinh động công việc, tính cách
và tâm lí của họ lúc bình thường cũng như lúc có sự cố” (Ánh đèn lò lấp lánh
như những vì sao). Theo ý riêng tôi điều đó nói lên những cố gắng để “tri ân và chia sẻ cùng những người thợ mỏ”
của Vũ Thảo Ngọc đã được đền đáp xứng đáng.
Hà Nội, 5 tháng Ba, 2017
In trên báo Văn Nghệ của Hội nhà Văn Việt Nam, số 12 tháng 3/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét