Tiến sĩ Nguyễn Văn Đường viết về sách "Từ Kim Vân Kiều đến Truyện Kiều" (tiếp theo và hết)
4. Phần
3, tác giả so sánh 11 nhân vật, cả nhân
vật trung tâm (Thúy Kiều) cả nhân vật
chính (Từ Hải, Thúc Sinh, Kim Trọng)
cả nhân vật phụ (Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, Thúy Vân),
thậm chí nhân vật rất phụ như Kế thị (Hoạn Bà, mẹ Hoạn Thư); nhưng lại rất tiếc, không thấy tác giả đả động đến nhân vật Lưu Đạm Tiên?! Tôi có đem thắc mắc này trao đổi trực tiếp với Vũ
quân. Ông cho rằng Đạm chỉ là một hồn ma,
một cái bóng mù mờ, không phải là một
nhân vật thực sự nên không nằm trong tầm ngắm của mình. Trong bài này, tôi chưa
có điều kiện để trình bày cặn kẽ ý kiến riêng của mình, nhưng vẫn cho rằng, tuy
chỉ là bóng ma thấp thoáng xuất hiện 2, 3 lần trong TK, nhưng Đạm Tiên vẫn là một nhân vật phụ rất quan trọng, không thể thiếu trong cả KVK và TK.
Bóng ma này tượng trưng cho số mệnh, định mệnh đã an bài, báo trước tương lai
thê thảm cuộc đời Kiều, phủ lên đời nàng một đám mây đen u ám mà Kiều từ buổi
thanh nữ đôi tám đến lúc nhảy xuống sông Tiền Đường tự kết liễu cuộc đời sắc
tài mệnh bạc đã không sao vùng thoát ra được! Tôi muốn biết so với nàng Lưu Đạm
Tiên trong KVK, nàng Đạm Tiên, dưới ngòi bút thơ của thiên tài ND đã được hoán
cốt đổi hồn ra sao?!...
Còn lại, với hầu hết các nhân vật khác,
ở những mức độ khác nhau, thủy chung đều được nhà nghiên cứu soi chiếu, đối
sánh, phân giải khá kỹ lưỡng, thấu lý, đạt tình. Người khảo cứu hậu sinh ở đây
đã không ngần ngại sử dụng, trích dẫn kết quả nghiên cứu của bậc tiền bối nổi
tiếng từ lâu (Hoài Thanh với bài khảo
cứu so sánh văn học tài hoa, sâu sắc: Một
phương diện của thiên tài Nguyễn Du: Từ Hải (1943). Tuy vậy, nhà nghiên cứu phê bình văn học hôm nay, thừa kế
và tiếp tục công việc của những người đi trước, chỉ trong một đoạn Kiều - Từ
gặp gỡ, đã chỉ ra
được 5 điểm khác nhau mới mà Hoài
Thanh năm nào chưa để ý (tr. 124 – 127).
Và cũng chỉ so sánh nội trong một đoạn ấy thôi. Nếu nhà nghiên cứu theo dõi
tiếp những đoạn sau: đoạn giằng xé nội tâm giữa Kiều – Từ, khi Hồ Tôn Hiến thuyết hàng, đoạn Kiều thuyết Từ, đoạn
Từ đấu tranh vật vã nội tâm rồi mới quyết định ra hàng, đoạn Kiều trong đau
đớn, hối hận cùng cực, vẫn đàng hoàng ca ngợi Từ Hải trước mặt Hồ Tôn Hiến… nghĩa
là so sánh đầy đủ, toàn diện hơn, chắc sẽ còn tìm thấy nhiều điều thú vị khác
thể hiện thiên tài Nguyễn Du qua nhân vật Từ
Hải – giấc mơ biển cả (Đỗ Đức Hiểu).
So sánh nhân vật Thúy Kiều của ND với KVK của TTTT là bài khảo cứu so sánh
triệt để, kỹ lưỡng, công phu và tương đối toàn diện. Phân giải, đánh giá những
chi tiết Nguyễn Du thêm vào cảnh Kiều
quyết chịu gia hình mà không chịu về lầu xanh, không một lần xưng con, gọi má với mụ Tú Bà, đã thể
hiện bản lĩnh và tính cách cứng cỏi của Thúy Kiều, điều không thấy ở KVK. Đó là
đóng góp của nhà nghiên cứu. Kết luận của Vũ Nho, theo tôi, là thỏa đáng,
thuyết phục:
Nàng
Kiều của ND chẳng những đẹp hơn, tài hơn mà còn là người tế nhị, vị tha mà cư
xử có tình nghĩa hơn. Nàng là chị em với Vương Thúy Kiều của TTTT, nhưng nàng đã khác
xa người chị của mình. Sự khác biệt ấy có được chính là nhờ thiên tài Nguyễn
Du, nhờ tấm lòng nhân đạo vô cùng mênh mông, sâu sắc của nhà thơ. (tr. 144).
Nhưng ở đây, tôi muốn có đôi điều trao
đổi cùng tác giả.
Thứ nhất, như vậy, Kiều của ND, trong
mắt nhà khảo cứu so sánh hôm nay, đã hoàn toàn mười phân vẹn mười, không hề có chút tì vết, nhược điểm, hạn chế,
trong tính cách, sai lầm trong hành động, ứng xử? Có thể là vậy! Tuy Nguyễn Du
quá yêu nàng mà khéo che giấu, nương nhẹ đi, nhưng vẫn lộ rõ như không ít nhà
nghiên cứu nổi tiếng xưa nay từng chỉ ra. Chẳng hạn, Phan Ngọc trong “Tìm hiểu
phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều” (1985), Trần Đình Sử: “Thi pháp Truyện
Kiều” (2001): Ấy là tham lam, nhẹ dạ, nông nổi, cầu an, dễ tin người, hám
danh... Những nhược điểm mà chính nàng về sau cũng nhận ra và đã vô cùng ân
hận! (Tin tôi nên quá nghe lời/Bởi nghe
lời thiếp nên cơ sự này/Mặt nào trông
thấy nhau đây?! Giết chồng rồi lại lấy chồng/Còn gì mà sống ở trong cõi này?!).
Chắc hẳn Vũ quân cũng biết rõ những điều này? Giá như ông đối sánh rõ thêm
so với KVK xem ND đã làm mới hơn TTTT
ở những điểm nào thì còn thú vị hơn biết mấy!?
Thứ hai, về chi tiết ND cắt bỏ chi tiết giấc mơ của Thúy Kiều trong
KVK mong Kim Trọng hiện ra cứu mình,
nhân đối thoại với Đinh Bá Anh. Ông(VN) cho rằng đoạn giấc mơ là bình thường và
nhạt nhẽo. ND cắt bỏ là cao tay! (tr. 150 – 151).
Tôi cũng không tán thành ý kiến cực
đoan và phiến diện của ông Đinh, khi cho rằng Kim Trọng mới là nhân vật vĩ đại
của ND trong TK, nhưng cũng chưa thể tán thành đánh giá của Vũ quân về đoạn
giấc mơ của Kiều và sự cao tay của cụ Nguyễn, khi cụ cắt bỏ đoạn ấy
trong TK.
Có lẽ cụ vội vàng chăng? Hay cụ chưa
biết, chưa tin vào hiệu quả của những giấc
mơ nghệ thuật trong văn chương, điều mà từ Sêcxpia, Puskin, đến Tônxtôi… đã
thể hiện rất giỏi trong kịch và tiểu thuyết của mình, qua những giấc mơ của
Mácbet, Hămlét, Tachiana, Anđrây, Pie và Natasa…?! Nhưng sự thật, trong văn
bản, là ND đã cắt. Đó là cách làm của cụ, khiến cho người đời sau, kẻ khen,
người tiếc…! Âu cũng là sự thường tình và khó hiểu, gây tranh cãi , thảo luận
trong hậu thế… vậy!
Khi so sánh hình tượng nhân vật Kim
Trọng, Vũ Nho có tiện thể bình luận 1
nhận xét có vẻ tếu táo, trái chiều của Tạ Quang Khôi trong bản dịch Kim Vân
Kiều ra tiếng Pháp (XB ở Bỉ, 1986),
rằng Kim Trọng con nhà giàu, đẹp trai,
học giỏi, chỉ có tội ăn cắp vặt!
mà chỉ dựa vào câu văn dịch ra tiếng Pháp, từ câu Kiều: “Giơ tay với lấy về nhà”… theo Vũ quân:
Xem
xét như thế, tác giả cũng áy náy là có vẻ bới bèo ra bọ. Liệu có đúng với chàng
Kim hay không?
Tôi cũng băn khoăn như thế. Hoặc giả
như có thật thì đó cũng là hành vi ăn cắp vặt rất đáng yêu của một gã trai đang
tương tư say đắm, dám làm tất cả để tỏ tấm si tình!
Về nhân
vật Thúy Vân, tuy tính cách và số phận không phức tạp, đa diện như nhân vật
Thúy Kiều, nhưng xưa nay vẫn có những cách hiểu, cách phân tích khác nhau.
Trong đối sánh của mình, Vũ Nho góp một cách nhìn nhận đánh giá mới, không
giống ai, khá tinh tế và chân thực:
Thúy
Vân của ND khác xa TV của TTTT. Khác biệt lớn nhất là TV của ND nói ít hơn,
đúng với tinh thần nhà thơ mô tả: “ Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang”… Ông đồng tình
với nhận xét của Kim Thánh Thán:
Tác
giả chỉ điểm vài nét lờ mờ. Vì nó xa, thuộc về mối tình xa nên khi gặp 2 Kiều
thì trong đó chỉ thấp thoáng hình ảnh
Thúy Vân lần
thứ hai, thấp thoáng bóng Vân, khi 2 chị em trò chuyện. Lần thứ ba thể hiện ở
đôi má đỏ bừng, rồi chạy vào giường ngủ. Như vậy là tả một cách rất kín đáo. Với
ND, ông đã bỏ hết đối thoại 2 chị em, cả chi tiết má đỏ bừng… nhưng ta vẫn thấy
một nàng Vân rất có cảm tình với Kim Trọng và có “mối tình xa” với chàng (tr.
250).
… chứ không phải
là 1 nàng Thúy Vân một mực vô tình, thờ ơ, vô cảm đến trơ lỳ như 1 bài nghiên
cứu, xem xét lại nhân vật TV trong TK của 1 nhà thơ có danh là nhà Kiều học vừa đăng tải trên trang fb cá
nhân.
5. Phần 4: So sánh một số vấn đề, trong đó có 3 vấn đề quan trọng và nổi bật
được nhà khảo cứu đề cập tới: vấn đề tiền
bạc; vấn đề số phận người phụ nữ và
vấn đề triết lý trong Truyện Kiều.
* Đóng
góp mới của bài so sánh vấn đề
tiền bạc trong TK là ở chỗ:
- Một
là, tác giả đã thống kê, đối sánh, phân tích cụ thể, khoa học, dựa trên các
dị bản TK và KVK xưa nay để đi tới một kết luận mở có thể chấp nhận về từ ngữ,
khái niệm trong TK. Nguyễn Du đã nhiều lần dùng 2 từ bạc và vàng (nhiều nhất
là vàng) để chỉ tiền bạc, không nói
cụ thể số lượng cụ thể bạc hay vàng, chỉ chú ý đến giá trị cao. Kiều bán mình với giá ngoài 400 lạng (vàng); trong khi TTTT nhiều lần viết 450
lạng bạc. Nhà nghiên cứu đã góp phần
giải đáp về cơ bản một trong những thắc mắc, bức xúc của anh chị em giáo viên
Ngữ văn phổ thông về 1 từ trong TK: vàng
hay bạc? vàng hay vâng?... Thật là thú vị! (tr.
274 – 275).
- Điều
thú vị thứ hai là, tác giả đã bình luận 5 khái quát và bình luận trực tiếp
của Nguyễn Du về đồng tiền như những câu tục ngữ, châm ngôn, triết lý
đúc kết, chiêm nghiệm từ bản thân và dân gian về tiền bạc.
** Về vấn đề số phận người phụ nữ
trong Truyện Kiều, so với KVK của TTTT, cũng vừa được gợi mở vừa đào sâu
thêm những tầng nấc mới.
Khái quát: Đau đớn thay phận đàn bà! đã hơn một lần được láy đi láy lại, chứa
chan nước mắt trong Đoạn trường tân thanh
và Văn chiêu hồn, trở thành khúc bi
ca mang tầm nhân loại, vượt thời gian và không gian xuất phát từ một trái tim lớn của một nghệ sỹ lớn (Hoài Thanh).
Có nhà thơ nổi tiếng cho rằng đó là câu thơ nhân đạo nhất và cũng là giản dị
nhất, hiện thực nhất, hay nhất trong Truyện
Kiều!
Chúng ta hoàn toàn biểu đồng tình, chia
sẻ với đánh giá trân trọng của Vũ Nho:
Nguyễn
Du là nhà thơ của phụ nữ, của những cuộc đời bị chà đạp, khổ đau. Ông luôn luôn
bênh vực, cảm thông với số phận người phụ nữ, người kỹ nữ là vấn đề mà nhà thơ
Việt Nam
đặt ra bức thiết trong tác phẩm của mình (tr. 293.)
*** Vấn đề triết lý trong Truyện
Kiều, một trong những vấn đề học thuật phức tạp nhất, gây tranh cãi nhiều
nhất xưa nay.
Khiêm tốn, tự lượng sức mình, Vũ Nho
đọc kỹ, đọc sâu các công trình nghiên cứu triết học Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo
uyên bác của thiền sư Thích Nhất Hạnh (Thả
một bè lau), Phạm Công Thiện, Cao Huy Đỉnh, Hoàng Ngọc Hiến: Nhìn sâu vào triết lý Truyện Kiều, Triết lý Phật giáo trong Truyện Kiều… tâm đắc chia sẻ những phân giải hữu lý hữu tình
của các vị về chữ tâm, chữ nghiệp, chữ mệnh, chữ Trời, chữ lòng…
Chúng ta đọc lại những thu hoạch của
Vũ Nho từ sách của thiền sư Nhất Hạnh:
Nguyễn
Du tin vào những điều đó (triết lý) bằng niềm tin nghệ sỹ, bằng kiến thức sách
vở, bằng trải nghiệm thực tế và bằng cả những niềm tin trong quan niệm tín
ngưỡng dân gian chứ không phải chỉ là niềm tin của người chuyên tâm, người được
học, được đào luyện bài bản (tr. 297)… Dù không đảm bảo chính xác tuyệt đối
theo quan niệm giáo lý Phật học thì Nguyễn Du vẫn đúng theo quan điểm phổ thông
của chúng sinh. Triết lý Nguyễn Du đưa ra cũng là để khuyến Tâm, khuyến Thiện
đối với tất cả bạn đọc. Nguyên cái thiện tâm ấy, chính tâm ấy cúng rất đáng ghi
nhận và ca tụng (tr. 302).
Từ sự học tập,
chia sẻ thành thực và khiêm tốn ấy, tác giả mạnh dạn đưa ra cách thức nhận của
riêng mình:
Những
vấn đề triết lý Nho, Phật, Lão trong Truyện Kiều là có, nhưng không phải là
xuất sáo. Bởi Nguyễn Du chỉ dừng ở quan niệm đại chúng…. Những triết lý mà
Nguyễn Du bằng trí tuệ của bậc đại trí, tiếp thu kinh nghiệm dân gian, giáo lý
các tôn giáo hàn lâm và cái chính là bằng tấm lòng của bậc đại nhân, bằng sự
nhạy cảm của nhà nghệ sỹ lớn, ông đã tạo ra, tự khái quát lên mới chính là điều đáng nói, đáng bàn kỹ hơn,
sâu hơn. Vì những triết lý đó là của Nguyễn Du chiêm nghiệm và đúc kết, xây
dựng.
Tác giả cho rằng Nguyễn Du đã vô cùng sâu sắc khi viết:
Cội nguồn cũng ở
lòng người mà ra…
Vì
vậy, triết lý sâu sắc nhất là triết lý xuất phát từ tấm lòng nhân đạo cao cả,
có gốc từ tấm lòng cao cả (tr. 311 – 312).
Chúng tôi rất
đồng cảm, đồng tình, đồng ý với những khái quát và lý giải sâu sắc đó.
Tiếp theo, nhà khảo cứu phân giả và
minh chứng 10 triết lý đời sống của Nguyễn Du đã rút ra có ý nghĩa như là châm
ngôn, tục ngữ đời sống không chỉ của của người Việt Nam mà hầu như của mọi dân
tộc, quốc gia, mọi chế độ. Ví dụ những câu thơ về triết lý về sức mạnh của đồng tiền, về lẽ
phải có người có ta, về tâm lý
con người khi tả cảnh thiên nhiên: Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ, về
thời gian tâm lý: Ba thu dọn lại một ngày
dài ghê, về sự bất tử của con người tài hoa: Thác là thể phách, còn là tinh anh…, câu thơ về sự mâu thuẫn giữa vẻ bên ngoài và tinh
thần bên trong, quan sát, so sánh ngầm mình với người khác, về chữ chữ tài và đạo đức, số phận (mệnh) gắn với chữ tai…
Và ông chân thành, bình tĩnh khuyên
người đọc thời @ những lời khuyên gan ruột:
Nếu
chúng ta đọc Truyện Kiều một cách chậm rãi, suy ngẫm thì chắc chắn sẽ còn tìm
ra nhiều điều thú vị, bất ngờ về những triết lý mà Nguyễn Du đã tổng kết, đúc
rút bằng “con mắt nhìn thấu sáu cõi, bằng
tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Chính điều này mới góp
phần làm nên giá trị tư tưởng cùng với giá trị văn chương Truyện Kiều (tr. 312
– 324).
Theo tôi, phần này là một trong trong
những đoạn viết cẩn trọng, mức độ, thể hiện công phu học hỏi, vận dụng; tâm
huyết, đóng góp về nhận thức lý luận triết học và phương pháp luận nghiên cứu
triết học trong tác phẩm văn học của tác giả.
2 trang Kết luận chung của Tác giả không chỉ là lời tổng kết súc tích ngắn gọn thành quả của công trình mà còn là lời
mời gọi mọi người và các thế hệ tương lai tiếp
tục tiến sâu hơn vào lĩnh vực nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều dưới góc độ so sánh và nhiều góc độ
khác. (tr. 326).
6. Phần
5: Phụ lục, chọn lọc 10 bài viết của Vũ Nho trong những năm gần đây về Nguyễn Du và Truyện Kiều góp phần làm
cho nội dung cuốn chuyên khảo thêm phong phú, dầy dặn hơn. Bạn đọc rộng rãi,
nhất là các giáo viên dạy Ngữ văn phổ thông các cấp, các em sinh viên, học sinh
dạy học Nguyễn Du và Truyện Kiều có thể tham khảo, sẻ chia hay tiếp
tục thảo luận, trao đổi, thậm chí phản biện với tác giả về nét ngài hay nét người? (mây thua nước tóc, nét ngài (người nở nang), Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần thì thanh y có phải 2 lần thoát y
hay 2 lần Kiều phải vào chùa đi tu?! Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em sinh đôi (Đầu lòng, hai ả Tố
Nga/Thúy Kiều là chị (ra trước), em là Thúy Vân (ra sau)… Có phải câu thơ tả mùa xuân của Nguyễn Du thật tài tình, đặc
biệt là từ điểm? (nguyên tác thơ cổ
Trung Hoa: Lê chi sổ điểm hoa); Hay
đó chỉ là sự dịch thơ khéo tay, bởi phép
đảo từ: “Cành lê trắng điểm
một vài bông hoa?!” (tr. 353 – 355). ..
Mặt khác, việc in lại nguyên văn các
bài đã đăng trên các báo như Mã Giám sinh mua Kiều, Góp phần dạy tốt đoạn trích Chí khí anh hùng ở lớp 10 THPT, Ứng xử trong buổi đầu gặp gỡ… khiến
người đọc thấy hơi bị cộm vì sự trùng lặp
với những nội dung phân tích so sánh ở các phần
2, 3 trong sách này. Trong lần tái bản sau, tác giả chỉ nên chú nguồn xuất
xứ trích dẫn 2 văn bản so sánh (Kim Vân
Kiều đối chứng (Phạm Đan Quế) và Truyện
Kiều chú giải (Đào Duy Anh) 1 lần
là đủ.
7. Một trong những ấn tượng đẹp mà tôi muốn chia sẻ cùng tác giả và bạn đọc Từ Kim Vân Kiều đến Truyện Kiều là vấn
đề văn phong và giọng điệu.
Theo tôi, Vũ Nho thuộc loại nhà nghiên
cứu phê bình văn học viết văn khảo cứu có
văn. Nghĩa là lời văn, câu chữ không khô khan, thuần luận lý mà khá dồi dào
cảm hứng và hình tượng, hình ảnh, trong khi vẫn giữ được sự mực thước, chặt
chẽ, điềm đạm trong quá trình luận chứng. Đó là văn phong nghiên cứu phê bình
với giọng điệu ôn hòa, bình tĩnh, khiêm tốn, nhưng tự tin vào những ý kiến,
luận điểm, lập luận và thực chứng mà mình đã từng cẩn trọng tìm tòi, khảo sát,
phát hiện, đối sánh, cân nhắc, phân tích, trước khi khái quát, kết luận. Không
khoe khoang ra vẻ hàn lâm, uyên bác, càng không thích dựa hơi, mượn tiếng, núp
bóng những đa đề quá khứ hay hiện
tại, trong hay ngoài nước, người viết chỉ viết ra những những suy nghĩ của mình
đã thu hoạch, đã nấu nung, nghiền ngẫm kỹ càng, có khi thành thật bộc lộ cả
những vấn đề bản thân còn đang băn khoăn, trăn trở chưa tìm ra lời giải đáp
thỏa đáng. Đó là văn phong của một nhà giáo dạy Ngữ văn lâu năm, một nhà sư
phạm thâm niên cao và một nhà quản lý chuyên môn Ngữ văn cấp phổ thông già dặn
kinh nghiệm. Về cơ bản, giọng điệu văn khảo cứu so sánh của Vũ quân là giọng đối thoại, chia sẻ, tâm sự cùng bạn đọc và với chính mình nên dễ gây được sự
đồng cảm, sẻ chia,… nhưng tôi thấy thi thoảng đôi chỗ, có lẽ do ảnh hưởng của
nghề nghiệp đứng trên bục giảng quá lâu, làm công tác chỉ đạo chuyên môn nhiều
năm ở cấp Bộ nên cũng hơi bị miên man sang lối thuyết giảng, giảng giải chi ly,
cặn kẽ như nói với học trò hoặc với các giáo viên trẻ… Mặt khác, trong sách còn
thưa vắng những đoạn luận bình thơ Kiều say bốc, tràn trề nhiệt hứng, mang dấu
ấn của tâm hồn thi nhân, mà tác giả cũng là một ngòi bút thơ trữ tình được
nhiều bạn đọc yêu thơ biết tới. Có lẽ tác giả đã chủ ý tiết chế, kìm nén cảm
xúc thơ, cảm hứng nghệ sỹ, khi biên soạn một công trình khảo cứu so sánh văn
học trung đại nghiêm túc chăng? Nhưng đọc Đi
giữa miền thơ, Bình thơ, Thơ cho tuổi
thơ…tôi thấy giọng bình, lời bình thơ của Vũ Nho có phần mềm mại, uyển
chuyển và linh hoạt hơn?! Hay đây mới chính là giọng điệu văn phong nghiên cứu
văn học đích thực của Vũ quân? Hay tôi đã quá khó tính, đòi hỏi quá cao nơi một
ngòi bút đa dạng về phong cách?!...
***
Tóm
lại, cuốn sách Từ Kim Vân Kiều đến Truyện
Kiều (So sánh – Bình luận) của
PGSTS. Vũ Nho là một công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa thực tiễn và lý luận
rất đáng ghi nhận trên mặt bằng chung của tình hình và thực trạng nghiên cứu
phê bình văn học Việt Nam
hiện nay.
Nó góp phần khẳng định vững chắc hơn
nữa giá trị tư tưởng - thẩm mỹ rất cao
sâu của Truyện Kiều – Nguyễn Du
nếu so sánh toàn diện và hệ thống với Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân.
Nó có ý nghĩa gợi mở phương pháp luận sư phạm và giáo dục, một tài liệu tham khảo hữu
ích đối với anh chị em giáo viên, sinh viên và học sinh trong quá trình
giảng dạy, nghiên cứu và học tập Nguyễn
Du và Truyện Kiều trong các nhà trường Việt Nam.
Nó càng chứng tỏ Truyện Kiều là một trong những kiệt
tác thuộc loại “không đáy”của
muôn đời, của Việt Nam và nhân loại; Truyện
Kiều và Nguyễn Du luôn luôn gọi
mời và thử thách những cách đọc hiểu
mới, mở ra những hướng tìm tòi, nghiên cứu mới, đồng sáng tạo mới, đầy triển vọng, trong hiện tại và cả tương lai…
Đó chính là ý nghĩa khoa học - giáo dục – thời sự
sâu sắc của cuốn sách nghiên cứu mà Vũ Nho là tác giả./.
Trèm, Bắc Từ Liêm ngày đầu tháng
hai Đinh Dậu,
29/2/ 2017
ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét