Tiến sĩ Nguyễn Văn Đường viết về sách "Từ Kim Vân Kiều đến Truyện Kiều"
TS Nguyễn Văn Đường ( Đường Văn) đã đọc và viết một bài công phu và dài về cuốn "Từ Kim Vân Kiều đến Truyện Kiều - so sánh và bình luận". Trang vunhonb đã giới thiệu bài viết rút gọn 2000 từ đăng trên Văn Nghệ Công An. Nay xin công bố toàn văn bài viết để những bạn quan tâm có thể xem và trao đổi.
MỘT CÔNG
TRÌNH NGHIÊN CỨU SO SÁNH VĂN HỌC
CÓ GIÁ TRỊ
(7 cảm luận khi đọc chuyên
luận: Từ Kim Vân Kiều đến Truyện Kiều
(So sánh& Bình luận của PGS.TS Vũ Nho;
NXB Hội Nhà văn, 2016)
ĐƯỜNG VĂN
1. Đó là nhận xét tổng quát và ấn tượng nổi bật của chúng tôi, khi đọc xong
cuốn sách mới của PGSTS. Vũ Nho, một công trình nghiên cứu văn học trung đại,
Việt Nam,
dưới góc độ so sánh. Thực ra, ở nước ta, trong lịch sử nghiên cứu phê bình Nguyễn Du ( ND) và Truyện Kiều(TK) có
đối sánh với Kim Vân Kiều ( KVK) của Thanh Tâm Tài Tử (TTTT), tác phẩm của Vũ
Nho không phải là công trình mở đầu. Trong phạm vi đọc của chúng tôi, ít nhất
cũng đã thấy thấp thoáng mặt này, mặt khác, ở những mức độ nông sâu khác nhau
khi so sánh Kim Vân Kiều (KVK) của Thanh Tâm Tài Tử với Truyện Kiều - (Đoạn Trường tân thanh)
của Nguyễn Du. Nếu bài viết công phu và tài hoa, đầy phát hiện của Hoài Thanh: Một phương diện của thiên tài Nguyễn Du: Từ Hải (1943) có thể được
xem như phát súng mở đầu vang dội nhưng lẻ loi và mới chỉ khuôn trong phạm vi một
hình tượng nhân vật trong Truyện Kiều
thì sách Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế; NXB Hải Phòng (1999) mới
chỉ dừng ở mức độ đối chiếu đơn thuần:
(so sánh lần lượt toàn bộ 2 văn bản theo trình tự cốt truyện), cứ một trang văn
xuôi KVK đặt bên cạnh 1 trang thơ lục bát TK mà thôi! Người biên soạn không hề
có một câu, một dòng phân tích, chỉ rõ
hay nhận xét, bình luận nào.
Công trình nghiên cứu văn học mới của
Vũ Nho đã sử dụng triệt để kết quả nghiên cứu, đối chiếu của Phạm Đan Quế như
là 1 trong 2 tài liệu tham khảo cơ bản nhất (cùng với văn bản Truyện Kiều hiệu hảo và chú giải của Đào Duy
Anh (1984). Các công trình nghiên
cứu và khảo đính Truyện Kiều của Trần
Trọng Kim, Tản Đà, Nguyễn Bạch Khoa,
Bùi Kỷ, Nguyễn Thạch Giang, Hoài Thanh, Lê Văn Hòe, Lê Đình Kỵ, Phan Ngọc, Trần
Đình Sử… đều ít nhiều có sử dụng phương pháp so sánh văn học giữa TK và KVK
trên các bình diện và cấp độ khác nhau, nhưng đều không phải là phương pháp
trọng tâm, chủ yếu và chỉ nhằm mục đích phục vụ cho chủ đích chung của từng
công trình ấy.
Bởi vậy, có thể nói, dưới góc độ và
phương pháp so sánh văn học hiện đại nhằm một mục tiêu duy nhất, chứng minh cho
một tiền đề xác định từ lâu, nhưng chưa được luận chứng cụ thể, chi tiết và đầy
đủ, thì công trình của Vũ Nho, ở Việt Nam, cho đến nay, có lẽ là công trình khảo cứu so sánh khoa học đầu
tiên về Truyện Kiều đạt kết quả
khả quan, thuyết phục, đáng ghi nhận và tin cậy.
Theo tác giả khẳng định: Luồng ý kiến thứ nhất, cho rằng Nguyễn
Du chẳng qua chỉ dịch hoặc phỏng dịch (chuyển thể) từ KVK (tiểu thuyết
chương hồi, văn xuôi bằng tiếng Hán (chữ Hán) sang tiểu thuyết thơ tiếng Việt
(chữ Nôm), đã trở thành hoàn toàn sai
lầm, thiếu căn cứ trước luồng ý kiến thứ hai: Nguyễn Du, bằng
thiên tài, cái tâm nhân ái bao la, cái tầm nhân văn sâu thẳm đã sáng tạo TK trên cơ sở KVK, đã hoán cốt đổi hồn một tác phẩm văn xuôi trung đại Trung Hoa cỡ trung
bình thành một thiên tiểu thuyết thơ Việt
Nam - kiệt tác mang tầm nhân loại.
Qua sự đối chiếu, so sánh, chứng giải,
bình luận công phu, cặn kẽ, chặt chẽ của Vũ Nho, không còn nghi ngờ gì nữa, từ
một luận điểm khái quát chưa được minh chứng tường minh, khách quan, đã trở
thành một hiện thực nhỡn tiền, một xác tín hiển nhiên, một chân lý tư tưởng –
nghệ thuật đầy sức thuyết phục, cụ thể, rõ ràng và hấp dẫn.
Theo chúng tôi, đó chính là giá trị và ý nghĩa quan trọng nhất, nổi bật nhất của cuốn sách Từ KVK đến TK.
Nói
cách khác, mục tiêu duy nhất mà tác giả đặt ra khi viết công trình này “là so sánh KVK với TK và bình luận để thấy
sự sáng tạo to lớn của Nguyễn Du (tr. 7)… dụng công làm mới tác phẩm mà ông (ND) vay mượn” (tr. 325),
một công việc không mới nhưng đã đạt được
thành công, rực rỡ (tr. 326). Như chính người biên soạn tự tin, tự
đánh giá kết quả công việc của mình là “viết
thành cả một cuốn sách đã là một
thành công” (tr. 326).
Với tư cách một bạn đọc vô cùng kính
ngưỡng Nguyễn Du và yêu say Truyện Kiều,
tôi cũng thấy nói như vậy không phải là tự thị hay khoa trương, tự đề cao bản
thân và cuốn sách của mình. Không những thế, tôi cho rằng công trình của PGSTS.
Vũ Nho còn có ý nghĩa phương pháp luận và
thực tiễn không nhỏ, góp phần thúc đẩy ngành lý luận so sánh nghiên cứu văn
học nói chung và ngành Kiều học ở
nước ta tiến lên một bước trên con đường hiện đại hóa và hội nhập với khu vực
và thế giới.
Dưới đây, chúng tôi sẽ lần theo bố cục
và nội dung từng phần, mục của cuốn sách, trình bày những cảm luận của mình về
những thành công của tác giả trong kỹ thuật so sánh, đối chiếu và bình luận để
làm sáng tỏ thiên tài Nguyễn Du so với Thanh Tâm Tài Tử, đồng thời cũng nêu lên
một vài điều chủ quan muốn trao đổi cùng người biên soạn.
2. Trước hết, về kết cấu, bố cục công trình: vừa chặt chẽ, mạch lạc, các phần, mục hô ứng, nối tiếp,
liên hệ, bổ sung cho nhau cùng nhằm giải quyết một yêu cầu chung như một định
đề, một tiên đề đã có sẵn, nhưng hãy còn khá mơ hồ, chưa tường minh bằng chứng
lý. Tuy vậy, mỗi phần, mục lại có tính độc lập tương đối, có thể tách ra thành một bài nghiên cứu độc
lập, chững chạc (mà thực tế là như vậy. Nhiều mục trước khi sửa chữa, nâng cao,
đưa vào sách đã được đăng tải trên các báo, tạp chí trong nước những năm trước
đó, kể cả những bài trong phần Phụ lục).
Lời
nói đầu như 1 cái tự tựa, giãi
bày tâm sự của tác giả về quá trình và kết quả học tập, nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều mà còn muốn nói
lên nguyên nhân và mục tiêu của cuốn sách của mình.
Phần
I: Khái lược về sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Tử:
Ngắn gọn, súc tích, nhưng vẫn không
thiếu những con số đối chiếu và so sánh cụ thể, tác giả đã khái lược nội dung
cuốn sách của mình bằng cách đặt ra và trả lời câu hỏi cơ bản nhất: - Nguyễn Du
đã sáng tạo điều gì và như thế nào để có TK khác
với KVK của TTTT? Trên các bình diện và vấn đề: Cốt truyện và kết cấu, các đoạn
quan trọng, các chi tiết, các nhân vật, và một số vấn đề khác…
Một trong những giới thuyết cần thiết mang tính lý luận – phương pháp luận cần được
luận giải và tác giả đã luận giải thuyết phục, đó là vấn đề: đối chiếu, so sánh, bình luận một tác phẩm văn xuôi (tiểu thuyết chương hồi Trung
Hoa (chữ Hán) thuộc loại hình tự sự
với một tác phẩm tiểu thuyết (truyện) thơ
Việt Nam (chữ Nôm) bằng thể thơ lục bát thuộc loaị hình tự sự - trữ tình, có
bất cập hoặc khiên cưỡng không? (tr. 20 – 24).
Kết luận của Vũ Nho: Hoàn toàn có thể
so sánh như vậy… “Cốt yếu là bằng con mắt khách
quan, trung thực”.
Tôi cho rằng, đó là một kết luận về
phương pháp nghiên cứu thỏa đáng, mạnh dạn, không hề chủ quan, duy ý chí mà đầy
tự tin, hoàn toàn dựa vào sự đối sánh, tìm tòi, phát hiện qua 2 văn bản và sự
luận giải cẩn trọng của người viết, nhằm báo trước những dự kiến thiết kế mà
mình sẽ thực thi trong những phần tiếp theo. Tuy nhiên, xét cho cùng, bất cứ sự
so sánh nào mà chẳng khập khiễng ít nhiều! Ở đây, Vũ Nho chỉ chủ tâm làm có một
công việc tưởng dễ mà khó, giản đơn mà phức tạp là làm rõ Nguyễn Du đã làm khác, làm mới hơn, sáng tạo lớn, thậm chí rất lớn trong TK so với mẫu gốc – nguyên bản KVK ra sao?
Về dung
lượng (14 trang), bố cục phần Khái
quát, theo thiển ý, giá như người viết nhập phần này vào nội dung Lời nói đầu có lẽ phù hợp và liền mạch
hơn. Nhập vào như thế, kết cấu nội dung phần chính văn sẽ chỉ gồm 3 phần lớn, tương đối cân phân cả về khối
lượng và chất lượng. Chúng sẽ liên kết, nối tiếp và hô ứng nhau như 3 cái chân
kiềng vững chắc, bề thế.
3. Mô
hình chung của mỗi bài trong các phần
2, 3, 4 được cấu trúc như sau:
+ Lời dẫn
+ Đối chiếu trích đoạn văn
bản KVK và TK
+ Liệt kê cụ thể từng điểm,
từng chỗ, từng chi tiết, từ ngữ, hình ảnh, nhân vật, sự việc… mà Nguyễn Du đã
dụng công làm khác, làm mới, đã sáng tạo trong TK so với KVK
+ Phân giải, bình luận
Một mô hình trình bày như thế là thống
nhất, xuyên suốt, mạch lạc, logich, chặt chẽ và hiệu quả. Nhưng người đọc cảm
giác có lẽ vì chỉ sử dụng một lối viết như vậy trên gần 40 đơn vị bài/ mục của
3 phần nên cũng bắt đầu thấy xuất hiện cảm giác đơn điệu, trùng lặp, chưa thật
linh hoạt trong cách thức thể hiện. Hoặc tác giả chỉ chủ yếu hướng đến cái đích
nội dung tìm tòi, phát hiện, chứng minh vấn đề mà chưa chú ý đúng mức đến hình
thức trình bày vấn đề chăng?
Quả thật, lần đầu tiên, qua công trình
khảo cứu rất tỉ mỉ, rất bài bản của Vũ Nho, tôi mới được thực chứng một cách cụ
thể, rành rõ nhiều điểm, nhiều sự việc, nhân vật, vấn đề khác nhau đến thế giữa
TK và KVK. Lần theo bảng thống kê, kiểm điểm, so sánh của tác giả, chúng ta
thấy, một vài ví dụ:
Đoạn
mở đầu: 9 điểm; đoạn Kim Trọng gặp chị em Kiều trong tiết Thanh minh: 14 điều;
đoạn Kiều – Kim thề nguyền: 16 điểm, đoạn Thúc ông kiện Thúc Sinh, 9 lần thay
đổi…Thống kê sơ bộ, thấy chỉ riêng phần
2: Đối chiếu, so sánh các đoạn (12 bài/mục), tác giả đã phát hiện, đối sánh
được tới 111 điều khác biệt về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật
mà Nguyễn Du đã làm khác, làm mới, đã sáng tạo so với TTTT. Nếu tính cả phần 3: So sánh các nhân vật (11 bài/mục),
phần 4: So sánh một số vấn đề (3 bài/mục)… nữa thì tổng cộng số lượng tìm
tòi, phát hiện và phân giải của tác giả đã lên tới hơn 300 điều, xấp xỉ 10%
tổng số câu Truyện Kiều (3254 câu).
Quả thật là những con số biết nói, rất đáng ghi nhận công phu, tinh thần say
sưa kiếm tìm và hiệu quả của nhà nghiên cứu.
Nhưng số lượng mới chỉ là một vấn đề.
Quan trọng hơn là chất lượng và hiệu quả của sự tìm kiếm, đối sánh ấy ra
sao?
Theo chúng tôi: rất khả quan. Hầu hết
những điều, những điểm, những vấn đề mà tác giả soi chiếu, phát hiện để thấy rõ
sự khác biệt trong TK so với KVK đều
chính xác, đều được minh chứng cụ thể bằng ý kiến, câu chữ rõ ràng, thuyết
phục. Các biện pháp so sánh văn học
được thực hiện một cách cẩn trọng, nghiêm túc, đúng quy trình, khách quan và
trung thực cho nên vừa quen vừa lạ, hấp dẫn và thuyết phục.
Chẳng hạn đoạn Từ Hải từ biệt Thúy Kiều. Vũ Nho so sánh và bình luận: Trong
KVK, Từ Hải từ biệt TK ra đi chỉ vỏn vẹn có hơn 1 dòng gồm 2 câu ngắn: “Từ bèn
mua riêng 1 sở để cùng ăn ở với nàng. Được hơn 5 tháng thì Từ dứt áo ra đi”.
Nếu tính chi li ra, câu văn xuôi thứ nhất trên đã được ND viết thành 4 câu lục
bát tương tứng: “Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn…Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp
duyên cưỡi rồng”. Như vậy, cả đoạn chỉ còn có 1 câu ngắn thứ 2 mà thôi! Thế mà,
trong TK, ND đã chỉ căn cứ vào 1 câu ngắn ấy để sáng tạo hoàn toàn mới thành 1
đoạn thơ dài gồm 18 câu lục bát với bao nhiêu điều khác biệt: “Nửa năm hương
lửa đang nồng… Gió mây bằng tiện đến kỳ dặm khơi!”... 18 câu lục bát tâm lý và
tài hoa cho thấy chí khí anh hùng của Từ Hải. Có đối đáp, có nguyện vọng và từ
chối, có hứa hẹn, an ủi, có cả bình luận
của nhà thơ. Tất cả đều nhằm khắc họa sâu thêm, rõ thêm chí khí, khát
vọng của người anh hùng Từ Hải. Đó chẳng phải là một sáng tạo tuyệt vời của
Nguyễn Du hay sao?! (tr. 95 – 99).
Đó là thêm. Còn bớt, rút gọn…?
Đoạn Thúc Sinh (TS) từ biệt Thúy Kiều(TK) từ 8 trang văn xuôi trong KVK,
chỉ còn 28 câu, rồi 8 câu tuyệt tác trong TK với 17 sự điều chỉnh, thêm/bớt
của Nguyễn Du đã làm cho buổi TS từ biệt TK trở nên đặc biệt độc đáo. Bạn đọc
được chứng kiến một bậc thầy về miêu tả cảnh vật thiên nhiên, một bậc thầy về phân
tích tâm lý nhân vật cũng như tấm lòng yêu thương, trân trọng của Nguyễn Du đối
với mối tình TK – TS (tr. 85 – 87).
Bắt chước Kim Thánh Thán bình Tây Sương ký, đọc Vũ Nho, lắm lúc, tôi
cũng vỗ đùi mà kêu lên rằng: So sánh - bình luận như vậy, chẳng đã thống khoái
sao?!
Cũng có khi chỉ đối sánh một chi tiết
nhỏ nhặt, dường như rất ít người để ý, vậy mà
tác giả vẫn tìm thấy và làm rõ sự mới
mẻ, tinh vi, sâu sắc của Nguyễn Du. Ví dụ, khi Vũ Nho phân tích, bình
luận:
Có
thể thấy thêm rằng trong KVK, nàng Kiều vừa quyết định bán mình thì đã trao
duyên ngay cho Thúy Vân. Như vậy là nàng vẫn nghĩ cho tình riêng của mình khá
sớm. Trong khi ở TK, ND để cho các sự việc mua bán xong xuôi, Vương ông được tha về nhà, Mã Giám sinh đã trao bạc…
Lúc đó Kiều mới nghĩ tới tình riêng, mới trao duyên cho Vân. Như thế, tính cách
của Kiều coi trọng chữ Hiếu hơn chữ Tình, hy sinh tình riêng làm nghĩa vụ cứu
gia đình càng được khắc hoạ nổi bật (tr. 65).
Có điều, tôi thấy hơi lạ là sau 11
đoạn so sánh, từ đoạn mở đầu đến 7 lần nhớ của Thúy Kiều… vẫn không thấy tác
giả đối sánh đoạn đoàn viên Kiều – Kim tái hồi có hậu, đoạn kết KVK và TK
mà theo Xuân Diệu thì sự có hậu chỉ là cái vỏ bên ngoài, còn thực chất là một bản cáo trạng đặc biệt, một bi kịch không
có hồi kết! hay là trong đoạn này, so
với TTTT, ND không có sáng tạo gì thật mới mẻ,
đáng để so sánh, bình luận?! Tôi chưa đọc qua đoạn ấy trong KVK nên không dám
có ý kiến dứt khoát, chỉ thấy tiêng tiếc mà thôi!
( còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét