KHOẢNG
CÁCH
TẢN VĂN
DƯ HOA
VŨ CÔNG HOAN dịch
Một
thiếu niên ngày xưa đã chứng thực sự từng trải thế này, có lúc từ
nhút nhát sợ sệt
đến không hề khiếp sợ chỉ cách nhau một bước. Đây là một
chuyện cũ thời kỳ giữa những năm 1970, chúng tôi từ cuộc sống trầm
buồn ức chế đi đến hồi kết của đại cách mạng văn hoá.
Tôi
muốn kể một câu truyện về bạn học ngày xưa.Hiện giờ anh vẫn ở trên thị
trấn nhỏ quê hương, thất nghiệp nhiều năm, sống dựa vào số tiền nghỉ hưu còm của
bố đẻ. Tôi còn nhớ nét mặt thanh tú ngày ấy của
anh, bởi vì hai cái răng nanh chìa ra của anh bị mất, thân hình gầy nhỏ của anh khi bước đi thường bám theo
sau lưng chúng tôi.
Thời
ấy chúng tôi là bọn trẻ con hè phố hay sinh sự, thường cãi nhau đánh
nhau với với bọn trẻ cùng trang lứa trên thị trấn. Cũng có khi hùng hùng hổ
hổ dám ra tay huỵch lại đám thanh niên cao hơn mình nửa
cái đầu.Lần
nào dã
nhau kịch liệt, anh bạn ấy cứ nấp nấp tránh tránh ở
xa xa trông xem, không bỏ chạy cũng không tham chiến. Về sau anh đột nhiên tỏ
ra dũng cảm không sợ, trận ẩu đả nào cũng xông lên trước, rút lui
sau cùng.
Có lần bọn
nhóc hè phố chúng tôi bị bọn thanh niên đường phố đánh cho ôm đầu bỏ chạy.
Giữa lúc chúng tôi tan rã hoàn toàn, người bạn học này chạy
về nhà rồi lại vung con dao bài xông ra đối mặt với tụi thanh niên hè phố sĩ
khí ào ào. Con
dao bài trong tay phải của cậu ta cứa một nhát trên mặt
mình đầu
tiên, khi
máu toé ra, lại
dùng tay
trái lau
trên mặt
một cái, rồi hò hét ầm ĩ xông vào trong khi mặt mày máu me nhễ nhãi.
Tụi
thanh niên hè phố đang trong thừa thắng xung kích, trông thấy thằng cha
mặt bê bết máu cứ xông thẳng vào như sẵn sàng anh dũng hy sinh, tay
phải vẫn vung con dao bài sáng loáng.
Trung Quốc có câu tục ngữ; mềm sợ cứng, cứng sợ liều, liều không mất mạng. Tụi thanh niên đường
phố co cẳng bỏ chạy. Dọc đường anh bạn tôi vừa truy kích vừa hô hét:
-
Tao
phải liều sống chết với bọn bay!
Chúng tôi
vừa giờ còn ôm đầu chạy tán loạn, lập tức cáo mượn uy hùm, chúng
tôi cũng hô:Tao phải liều sống chết với bọn bay! Ào ào đuổi theo. Trên đường
phố thị trấn nhỏ, chúng tôi mồ hôi mồ kê nhễ nhại truy kích tụi
thanh niên đường phố. Để điều chình hít thở khi chạy, để thích ứng
tốc độ truy kích, khẩu hiệu của chúng tôi tự nhiên ngắn gọn đi:
-
Mày chết tao sống!
Chiều
hôm ấy,chúng tôi lừng danh trên cả thị trấn nhỏ.Từ đó chúng tôi
được danh hiệu nổi tiếng “bè lũ mày chết tao sống”.Những
thiếu niên hè phố khác nhìn thấy chúng tôi đứa nào cũng tươi cười đón tiếp, ngay đến tụi thanh niên đường
phố cũng nể sợ. Anh bạn học này được bọn tôi kính
nể trong lòng. Từ đó trở đi anh bạn không còn
bám
theo sau chúng tôi.
Chúng
tôi cũng đã quen cậu ấy đi phía trước.
Tại sao chỉ trong có một
đêm
bạn học của tôi đã khác hẳn? Kỳ thực là một nguyên
nhân rất đơn giản, một nguyên nhân hiện nay xem ra đúng
là
khó
tin.
Bố mẹ bạn ấy có lần
cãi nhau với hàng xóm, có lẽ
nghi ngờ hàng xóm lấy trộm của nhà mình mấy viên than quả
bàng, một chuyện vặt vãnh như lông gà vỏ tỏi.Đi đôi với sự cãi nhau không ngừng
quyết liệt, hai gia đình đã ra tay đánh nhau. Lần này anh bạn tôi đã nhúng tay
vào, anh chọn
một đối thủ
yếu nhất, dơ nắm tay phải nhằm đúng bộ ngực nở nang của cô gái xinh đẹp nhà
hàng xóm đấm một cái.Chính là cú đấm này đã khiến anh bạn của tôi,thay đổi triệt
để. Sau đó anh bạn úp lòng bàn tay xuống dơ tay phải ra, trong ánh mắt vô cùng
hâm mộ của bọn tôi, cậu ta sung sướng kể bốn ngón tay của mình tiếp xúc thân mật với bộ ngực đầy đặn mềm
như bông của cô gái
xinh đẹp qua làn áo như
thế nào.
Cậu ta bảo trừ ngón cái ra, bốn ngón này
đều cảm nhận thấy sự mềm mại mê hồn.
Cảm nhận tuyệt vời thoáng
qua này
khiến bạn học sinh tiểu học
chúng
tôi cảm thấy cuộc đời mình đã hoàn thành.
Sau đó
cậu ấy thường hớn hở thoả mãn
khoe với chúng tôi:
-
Tớ
đã từng chạm vú
đàn bà,tớ có thể chết được rồi.
Chính là cảm thấy mình có thể chết mà vô cảm,
khiến cho anh chàng vốn dĩ nhút nhát đột nhiên trở thành người dũng cảm. Đấy là
thời kỳ thiếu niên của thời đại chúng tôi. Chỉ một lần chạm vào vú chín chắn
đàn bà trong chốt lát, có thể cải biến một con người. Bởi vì chúng tôi lớn khôn
trong một thời đại cực đoan. Khi ẩu đả đánh nhau chúng tôi bạo dạn ngông nghênh,
khi khát khao thân thể chân thực của đàn bà chúng tôi rụt rè thận trọng.
Đã
từng có một bạn học, đến nay không biết là ai, lấy phấn bí mật viết lên bảng
đen của lớp trung học chúng tôi hai chữ “ tình yêu”. Đây
là hai chữ chúng tôi lòng hiểu
trí biết
nhưng chưa sử dụng bao giờ. Thời ấy lớp mười chúng tôi có bốn lớp.
Chữ “tình yêu” xiêu xiêu vẹo vẹo xuất hiện trên bảng đen lớp ̣(1)̣̣ Các bạn
của ba lớp khác, dấu kín trạng thái tâm lý như thánh, mang nét mặt của kẻ phê phán, hô
khẩu hiệu “bắt lưu manh”, nhao nhao chạy đi xem. Đây là lần đầu tiên tôi
nhìn thấy
tổ hợp từ này. Trong chữ hán của chúng tôi,nó đã mất đi rất lâu rồi. Khi tôi nhìn thấy nó tự dưng người rạo rực.
Hai
chữ viết phấn xấu xí trên bảng đen phòng học lớp mười (1), làm tội chứng tồn tại đúng
mười ngày. Bởi vì uỷ ban cách mạng nhà trường phải tra tìm kẻ lưu manh viết từ
này. Đầu tiên thu các nét
chữ và đối chiếu trên các vở tập làm văn của nam sinh lớp chúng tôi. Không tìm ra nghi phạm,
lại rà soát tất cả vở tập làm văn của nữ sinh trong lớp, vẫn không phát hiện ra nghi phạm, sau đó mở rộng
sang lớp mười một,
vẫn không tìm ra nghi phạm, cuối cùng đành phải cho qua, chủ nhiệm uỷ ban cách mạng
nhà trường phải
đích thân xoá bỏ chữ “tình yêu “ trên bảng đen.
Tôi
rất buồn lòng.
Đã thành thói
quen ngày nào đi qua lớp học (1) tôi cũng nhìn hai chữ “tình yêu “ trên bảng,
khiến khát vọng tình yêu của tôi được thoả mãn như bánh vẽ đỡ đói. Sau khi
“Tình yêu” trên bảng bị xoá, bánh vẽ đỡ cơn thèm khát cũng không còn.
Chúng
tôi nghĩ, bạn học nặc danh viết từ này trên bảng đen, chắc chắn biết mình đang
phạm tôị
lưu manh, cố
ý viết chữ xiêu xiêu vẹo vẹo, từ đó có thể sống tự do ngoài vòng kỷ luật. Thời
ấy thịnh
hành câu nói trong phim “Con cáo có xảo quyệt đến mấy đi nữa, cũng đấu không nổi người đi
săn”. Sau sự kiện tình yêu này, giữa các bạn học bắt đầu lưu truyền câu đài từ
phản nghĩa:
“Người đi săn già đời đến mấy cũng đấu không nổi con cáo bé nhỏ quỉ
quyệt”.
Hiện giờ con trai tôi sắp vào
học lớp mười. Cậu thiếu niên
ngày
nay này
nói
với cậu thiếu niên ngày
xưa là tôi,khi học bài
sinh lý ở phổ thông trung học, thầy cô giáo yêu cầu
nữ sinh đều ngồi lên đùi nam sinh. Trong sự tiếp xúc
chặt chẽ giữa nam nữ sinh, thày
cô giáo
bắt đầu giảng giải về sự khác biệt giữa đàn ông
và đàn bà, giảng đến sự giao hợp, giảng đến chuyện thụ thai… Sau khi thầy cô giáo giảng xong hỏi các em học sinh có vần
đề gì?
Có
bạn dơ tay xin phát biểu;
- Thưa thầy cô có bài học
thực nghiệm không?
Xin
cho phép tôi nói tiếp câu truyện học sinh trung học. Hơn ba mươi năm trước, thời ấy giữa
nam sinh và nữ sinh trung học không nói chuyện. Tuy muốn nói chuyện vô cùng ,
nhưng không dám
nói, cho dù ái mộ bạn cũng chỉ len lén liếc mắt mà thôi, cũng không có nam sinh
viết mẩu giấy dấu diếm đưa cho nữ sinh, hơn nữa còn không dám viết rõ câu biểu
hiện tình yêu, đều là những câu chỉ hươu chỉ ngựa ví dụ câu mình muốn tặng bạn
một cục tẩy, một cái bút chì để truyền đạt tin yêu. Bạn gái nhận được mẩu giấy
lập tức
biết chàng trai định
nói gì.
Phản ứng phổ biến của nữ sinh là căng thẳng
và sợ hãi. Nếu mẩu giấy bị lộ, nữ sinh sẽ xấu hổ vô vùng, hình như mình làm gì sai phạm.
Ngày
nay hơn ba mươi năm đã trôi qua,
học sinh trung học tỏ tình yêu nhau đã hợp pháp hoá
về tâm lý từ lâu, đã công khai hoá trên
dư luận. Trên mạng in tơ nét tôi đã xem hai đoạn cơ líp, một đoạn trong lớp học giờ
nghỉ, một học sinh ngồi trên bàn học, cúi xuống
ôm bạn gái
ngồi trên
ghế, các
bạn khác
nói
chuyện và đi lại bên cạnh hai người. Họ cứ tỉnh bơ nói
chuyện và
hôn nhau như không có ai bên cạnh. Còn một
chuyện khác xảy ra trong hành
lang nhà
trường, một nam sinh ôm hoa tươi quì xuống đất xin yêu một nữ sinh trung học.
Sau khi nữ sinh từ chối trốn
vào
nhà
vệ sinh. Sau một lúc do dự, nam sinh ôm hoa tươi đuôỉ theo đi vào
nhà
vệ sinh nữ. Hiên nay hiện tượng nữ sinh có chửa
sớm, bởi càng ngày càng
phổ biến đã không còn là vấn đề xã hội, mà chuỵện kinh ngạc là lại có nữ sinh trung học mặc đồng phục của nhà
trường vào
bệnh viện nạo thai. Trên báo chí truyền thông đã từng đưa tin, một nữ sinh
trung học mặc đồng phục của nhà trường vào bệnh viện phẫu thuật có
bốn nam sinh trung học mặc đồng phục nhà trường cùng
đi theo. Khi bác sĩ yêu cầu gia đình ký
tên
trước khi mổ, cả bốn chàng trai đều tranh
nhau ký tên.
Vậy
thì nguyên nhân nào đã khiến chúng ta đi
từ cực đoan này sang cực đoan khác? Đằng sau vấn đề này có thể có rất nhiều câu
trả lời nổi lên. Tôi cảm thấy những câu trả lời xả xuống như thác nước cũng rất
khó nói rõ. Nhưng có một điểm rất rõ ràng: Một thời đại ức chế đè nén cực đoan
sau biến động xã hội lớn tất nhiên sẽ nẩy
sinh một thời đại phóng túng cực đoan, y như cây đánh đu, bên này cao bao nhiêu
thì sang bên kia tất nhiên cũng bay bổng
rất cao.
Sự
tăng trưởng với tốc độ cao của nền kinh tế Trung Quốc, hình như trong giây lát đã
thay đổi tất cả. Giống như cuộc nhảy xa, khiến chúng ta từ một thời đại thiếu thốn vật chất nhẩy vọt lên
thời đại phô trương lãng phí,
từ thời đại chính trị trên hết nhảy vọt lên thời đại đồng tiền là
số một, từ thời đại bản năng bị ức chế nhảy vọt lên thời
đại nôn nóng
buông thả…. Thời gian ba mươi
năm hình
như chỉ là
một bước nhảy.
Nhìn
Trung Quốc hiện nay,nhà cao tầng của thành phố đen ngòm dưới gầm trời, mọc lên khỏi mặt đất như những cánh
rừng, đường cao tốc đan
xen ngang dọc còn nhiều hơn sông ngòi.Trong thương trường trong siêu thị hàng
hoá loá cả mắt, trên đường phố ngựa xe như nước cuồn cuộn
ngày đêm,biển
quảng cáo và đèn nê ông nhấp nháy rực rỡ.Các hội đêm và trung tâm mát sa hết
cái nọ tiếp nối cái kia, viện chỉnh hình làm đẹp và rửa ngâm chân nối đuôi nhau
san sát,… Còn có những nhà hàng khách sạn khổng lồ sang trọng rải khắp nơi khắp chốn , có cái ba
bốn tầng, cái nào cũng to rộng như lễ đường, những gian thuê bao hào hoa phân cách ra chung
quanh. Hai ba ngàn người mặt hồng da nhẵn cùng ăn cùng uống linh đình.
Nhưng
ba mươi năm trước, trước khi chúng ta co người nhảy, chúng ta không trông thấy
nhà cao tầng,thi thoảng có mấy cái nhà gác cũng đều ở các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng
Hải. Chúng ta không biết thế nào gọi là đường cao tốc, thế nào là quảng cáo, cửa
hàng của chúng ta ít ỏi, trong cửa hàng cũng ít hàng hoá, hình như chúng ta
không có thứ gì, nhưng bầu trời của chúng ta thời đó xanh vô cùng.
Chúng ta sống trong chế độ
cung ứng định lượng, mỗi người mỗi tháng chỉ có 13, 5 kg tem phiếu lương thực, đấy là của
nam. Còn
của nữ chỉ có 12,5kg lương thực
và O,25 kg tem tem thịt và hai lạng tem dầu. Trong thời đó khi
mua lương thực vừa trả tiền vừa trả tem phiếu, mua thịt lợn và rau
cải dầu cũng đồng thời phải trả tiền và trả tem phiếu không được thiếu một. Lại còn
có
phiếu vải, chúng
ta phải dùng
tiền và
tem phiếu vải ra cửa hàng mua vải, sau đó đến
cửa hàng
cắt may may đo. Rất đông người
đã tự may cho bản thân để khỏi tốn tiền. Thời ấy không có xưởng cắt may quần
áo, trong cửa hàng cũng không có quần áo may sẵn. Thời ấy,nhà nào có một chiếc máy khâu sẽ được bà con hàng
xóm hâm mộ hết lời.
Chúng
ta phải tính toán chi li, mỗi ngày ăn sáu lạng cơm tẻ, mỗi tuần ăn mấy miếng thịt lợn, mỗi
lần tra mười giọt cải dầu, mới có thể mỗi tháng không bị chi trội. Thế hệ chúng
tôi lớn lên từ trong đời sống đói bụng song không chết,Khi thế hệ chúng tôi ôn
lại cái gì tốt đẹp nhất thời còn bé, ký ức của chúng tôi lại giống nhau kinh khủng, đều là trước kia đã
từng ăn thứ gì
ngon. Ngoài cái ăn chúng tôi dường như không có ký ức gì tốt đẹp khác,
Thời
ấy, dân thành phố thị trấn cho dù sẻn rịn cũng rất khó có của thừa. Đối với đàn ông mỗi tháng chỉ
có 13, 5 kg lương thực, thường không đủ no, còn đàn bà 12, 5 kg lương thực, có dư đôi chút,
tem lương thực còn lại của họ cung cấp cho chồng hoặc anh em, Cung ứng tem dầu và tem thịt cũng không đủ, Vậy
là người ta thường dấu diếm bỏ tiền ra
mua tem gạo tem dầu, để duy trì sinh kế.
Ở
quê tôi, trong tay nông dân có một ít tem dầu thừa, họ thu gom hạt cải dầu ngoài ruộng
rồi trao cho xưởng ép dầu quốc doanh, nhà nước sẽ trả bù cho họ một ít tem dầu,
số tem dầu ít ỏi này là thu nhập ngoài mức rất quan trọng của nông dân thời ấy. Nông dân nghèo túng muốn có tiền chữa bệnh, hoặc để cưới
vợ gả chồng, sẽ ra thành phố ngấm ngầm bán tem dầu trong tay họ. Trong thời đại chế độ công hữu,
những hành vi này chính là đầu cơ phe phẩy. Tôi còn nhớ khi mình học lớp mười đã từng cùng mười bạn học hăng
hái sôi nổi gia nhập vào đội ngũ chống buôn bán đầu cơ trục lợi, theo cách nói
hiện giờ là những người tình nguyện. Những người tình nguyện hiện nay vẫn còn có bữa ăn công tác, chứ cơm công tác thời
bấy giờ của chúng tôi,chỉ có há mồm hít gió lạnh mùa đông. Ngày nào chúng tôi cũng
thức dậy vào bốn giờ sáng, mai phục trong chợ thị trấn nhỏ, lần lượt nấp ở góc
phố hoặc đằng
sau cột điện, giống như mèo rình bắt
chuột. Một khi phát hiện có kẻ lén bán
tem dầu, vồ ngay tức thì, tóm cổ luôn kẻ đầu cơ phe phẩy. Sau
khi bắt tem dầu của họ, chúng tôi dương
dương tự đắc, áp giải người ấy đến văn phòng
chống đầu cơ buôn lậu.
Chúng
tôi lấy mạnh nạt yếu, lấy đó làm
vui, lại còn cảm thấy minh ngày nào cũng
tỏ ra chính
nghĩa. Tuy chiến quả rất nhiều, song phần tử đầu cơ trục lơị phần đông là nông
dân có
tuổi, tem dầu thu được cũng đều dưới nửa cân, mà những
nông dân này không dám chống lại. Họ như kẻ trộm lo
sợ, cảm thấy mình làm việc xấu. Phản ứng duy nhất
của họ là
nước mắt nước mũi lênh láng
trông thấy tem phiếu của mình
bị tịch thu mất trắng.
Chỉ
có một lần
chiến lệ huy hoàng, chúng tôi bắt được một anh nông dân cường tráng. Anh cao hơn chúng tôi
một cái đầu. Người anh to bằng hai chúng tôi cộng lại. Khi chúng tôi
xô tới, anh ra sức chống cự. Tay phải anh nắm chặt thành qủa đấm, đương nhiên anh
không dám đấm chúng tôi. Anh biết một khi đánh chúng tôi tội anh càng nặng.
Anh chỉ dùng tay trái đẩy chúng tôi ra rồi bỏ chạy. Đây là lần chống lại kịch liệt nhất mà chúng tôi
gặp phải, suýt nữa anh chạy thoát. Được cái chúng tôi
người đông thế mạnh, bao vây bốn phương tám hướng, có mấy bạn
học còn nhăm nhăm hòn gạch trong tay, đánh vào mặt anh chảy máu, ấn
anh xuống đất, Lúc này tay phải anh vẫn nắm chặt, tay trái vẫn cố gắng đẩy chúng tôi
ra. Chúng tôi biết trong tay phải anh nắm tem dầu, chúng tôi bẻ thế nào cũng
không bẻ được ngón tay anh. Hai bạn học đã ấn mạnh cánh tay phải anh xuống đất,
một bạn khác lấy gạch đập vào nắm tay phải anh máu chảy
đỏ lòm. Sau khi đập nắm đấm của anh lồi lên xẹp xuống thành mu
bàn tay,
chúng tôi
nhìn thấy
mấy tờ tem phiếu dính máu, đếm được đúng nửa kg. Sau khi chúng tôi áp giải anh đến văn phòng chống
đầu cư buôn lậu, lại khám trên người anh được 5,5 kg
tem dầu.
Chẵn
sáu
kg tem dầu, đây là lần thu được tem dầu nhiều nhất, nói
theo lối nói thịnh hành hiện nay ở Trung Quốc,là
thuộc về án
lớn án
quan trọng. Khi xét hỏi , anh ta vừa dùng tay
trái
không bị thương lau vết máu trên mặt, vừa khai tôị đầu cơ buôn lậu của mình. Để
chuẩn bị tiền cưới vợ, anh đã vay mượn bạn bè thân hữu bốn kg rưỡi
tem dầu, ngoài ra gia đình anh có một kg rưỡi tem dầu Bố mẹ anh chị en anh đã sáu
tháng nay không có một
giọt mỡ nào vào bụng, bữa nào cũng
luộc rau chấm nước muối.
Buổi sáng sớm ba mươi năm về trước ấy, bây giờ ôn lại tôi cảm thấy rùng
minh. Trong lúc bọn
học sinh trung học chúng tôi sung sướng cười vang trước chiến quả rực rỡ thì anh
nông dân vết thương khắp người lại cay đắng kể lại từng trải đơn giản của bản
thân. Do anh mắc lần đầu, chỉ phạt anh tịch thu sáu kg
tem dầu, lại bắt anh viết một giấy bảo đảm, hứa hẹn từ nay trở đi kiên quyết không còn
làm
việc xấu đầu cơ buôn lậu. Tay phải anh bị đau
khi viết giấy bảo đảm cứ run
run.Không biết vì ngón tay đau, hay là
vì
buồn mất toi sáu kg tem dầu? Máu trên
tay phải chảy trên giấy trắng, tờ giấy bảo đảm trở thành
một huyết thư.
Sau
khi anh được tha,bọn học sinh trung học chúng tôi vẫn còn hí
ha hí hửng đi bên cạnh
anh. Trên đường phố thị trấn nhỏ lúc sáng sớm, chúng tôi luôn luôn mắng nhiếc
anh, chúng tôi mắng nhiếc anh để khoe khoang bản thân. Chúng tôi cứ nói đi nói
lại số tem phiếu anh bị bắt. Người đi đường ai nghe thấy cũng há mồm trợn mắt ngạc
nhiên.
Trong tiếng cười nói oang oang của chúng tôi, anh ấy cứ im thin thít lặng lẽ bước đi. Chúng
tôi nhìn
thấy mặt anh đầy nước mắt, nước mắt cứ tuôn trào đầy
mặt như không có ai bên cạnh. Anh luôn luôn dơ tay
phải lau nước mắt ở khoé
mắt. Tay đau lại luôn luôn nhắc nhở anh nhìn tay phải của mình. Chúng tôi
đi mãi ra khỏi thị trấn nhỏ mới dừng lại. Chúng tôi vui cười chỉ trích anh,
nhìn bóng anh
đi xa dần trên con đường mòn dẫn về làng quê. Anh đi dưới ánh mặt trời vừa mọc, tay phải anh bị thương để ở trước ngực, với tâm trạng
mờ mịt, mang theo vết máu đầy mặt và đầy nước mắt, anh bước thất tha thất thểu trên lối mòn quê hương
dài tít
tắp.
Sau
hơn ba mươi năm, hôm nay tôi viết những dòng này với
cảm giác tràn đầy cay đắng và phạm tội trong lòng. Tôi không biết người
nông dân trẻ lương thiện này sau
đó làm thế nào để lấy vợ đúng thời hạn? Không biết anh sau đó khó khăn như thế
nào để trả nợ bốn kg rưỡi tem phiếu dầu vay nợ? Tôi nhớ rõ, khi chúng tôi đập gạch
vào đầu anh, anh nén cơn phẫn uất của mình, không dùng gạch đánh lại, nhưng chỉ
dùng bàn tay đẩy chúng tôi ra.
Xã hội Trung Quốc sau khi thay đổi lớn,
những phần tử đầu cơ trộm cắp trước kia, đã trở thành những tiểu thương tiểu chủ hôm nay. Những
người thất nghiệp trong thành phố và những người mất đất ở nông
thôn, để sinh tồn đây là nguyện vọng cơ bản nhất của con người, ở
thành thị
họ bày bán hàng hay rao bán dọc phố. Ngay ở Bắc Kinh đã có đến hàng vạn tiểu thương tiểu chủ như thế. Những tiểu thương tiểu chủ không có giấy
phép kinh
doanh này bởi tính lưu động rất mạnh, chính quyền địa phương không thể trưng thu
chi phí của họ. Đồng thời trong mắt quan chức địa phương, những hàng quán bày bán khắp nơi này đã
phá hoại
hình tượng
của thành phố, “cũng phá hoại xã hội hài hoà”. Một
cơ cấu mang tên “Cục chấp pháp quản lý tổng hợp thành thị” đã ra đời, đội viên quản
lý thị trường oai phong lẫm liệt bắt đầu hoạt động khắp nơi. Tôi đã quen quang
cảnh này. Đi trên các cầu nổi hay trên đường phố Bắc Kinh một bầy buôn bán nhỏ
ngồi xổm rao bán hàng hoá rẻ tiền của họ, chỉ cần có người hô một tiếng “Bọn quản lý thị trường
đấy”là họ rối rít thu dọn thật nhanh hàng hoá trên đất chạy trốn như ong
vỡ tổ.
Giống như hơn ba mươi năm về trước khi
những học sinh trung học chúng tôi tịch thu tem dầu của nông dân, thủ đoạn đối
phó những tiểu thương tiểu chủ của đội viên quản lý thị trường hiện nay không tiến hoá, cũng tịch thu hàng hoá họ bày
ra bán. Đương nhiên thành quả của đội viên quản lý thị trường hiện nay vượt xa
chúng tôi. ngày xưa. Rất nhiều hàng hoá quản lý thị trường tịch thu hiện nay chúng
tôi chưa thấy bao giờ ở thời ấy. Mấy năm trước,khi tôi cư trú ở gần một cửa ra
của đường sắt thường xuyên trông thấy rất đông người đạp xe xích lô không có giấy
phép kinh doanh. Họ đạp xe xích lô đón đưa khách, đồng thời cũng thường xuyên
thấy quang cảnh trên xe tải của quản lý
thị trường chất đầy xe ba bánh tịch thu khải hoàn trở về. Tôi đã từng thấy mấy người đạp xe ba bánh đau lòng. Họ
đều là những người bỏ hết tiền của gia đình hoặc vay mượn tiền của bạn bè thân
hữu mới mua được xe, gò lưng đạp xe nuôi sống gia đình, trả
tiền học cho con. Giữa mùa hè nóng nực,
họ gạt mồ hôi như mưa. Giữa mùa đông giá buốt, mồ hôi cũng như tắm.
Khi họ nhờ chiếc xe ba bánh để kiếm sống, bị quản lý thị trường tịch
thu, họ cũng hết đường sống.
Những
năm này,song song với tiểu thương tiểu chủ dùng xe ba bánh để
duy trì sinh kế, xe và hàng thường xuyên bị quản lý thị trường tịch thu, sự đối kháng giữa đội viên đội
quản lý thị trường và các tiểu thương tiểu chủ
ngày càng quyết
liệt, thường hay xảy ra hành vi vũ lực, nhưng không làm cho xã
hội chú ý rộng rãi, mãi cho đến lúc tiểu chủ Thôi Anh Kiệt dùng lưỡi
lê đâm chết một đội viên quản
lý thị trường chấp pháp, thì mâu thuẫn giữa tiểu thương
tiểu chủ và đội viên quản lý thị trường cuối cùng đã làm chấn động cả nước. Trên cơ
quan báo chí truyền thông liên tục đăng bài đưa tin, sau khi thảo luận,
rất đông người bắt đầu ý thức đến tịch thu xe và hàng hoá của tiểu thương tiểu
chủ một cách đơn giản và thô bạo, thực ra là tước đoạt quyền sinh tồn của họ một
cách biến tướng.
Thôi
Anh Kiệt đại biểu của quần thể yếu thế của xã hội Trung Quốc hôm nay, trước toà án đã tỏ
ý xám hối bởi sự rung động nhất thời của mình. Anh nói:
- Trước hết tôi bày tỏ xám hối đối với
nạn nhân và gia đình. Tôi biết bây giờ có nói gì đi nữa cũng vô ích. Tôi vốn nghĩ dựa vào hai bàn tay
của mình, bày hàng bán nhằm cải thiện đời sống của bản thân.
Sau vụ một nhân viên quản lý thị trường
bị đâm, trang bị bảo hộ của nhân viên quản lý thị trường được nâng cấp, được lắp
PDA ở đằng sau, áo trấn thủ chống đâm, mũ sắt, găng tay chống cắt, đèn pin cực sáng, đồng
thời còn mời cảnh sát vũ trang huấn luyện, dạy bảo đội viên quản lý thị trường đỡ
đòn đoạt dao như thế nào, tiến hành bồi dưỡng huấn luyện cho đội viên quản lý
thị trường những động tác thực tế bao gồm làm thế nào để giải thoát khi bị túm
cổ áo, túm tóc,khoá họng, ôm eo.
Tại
sao“phần tử đầu cơ trộm cắp”ngày xưa và tiểu thương tiểu chủ ngày nay khi
đứng trước hàng hoá tài sản của mình bị tịch thu đã có những
phản ứng sinh tồn khác nhau
lớn như vậy? Theo tôi, thời đại khác nhau, hình thái xã hội
khác nhau
đã dẫn đến phản ứng sinh tồn khác nhau.
Nếu xét từ góc độ hình thái xã hội,
cách mạng văn hoá là một thời đại đơn thuần, còn ngày nay là một thời đại phức
tạp nhốn nháo. Một câu của Mao Trạch Đông đã nói có thể đại diện đặc trưng cơ bản
của thời đại cách mạng văn hoá. Ngài nói; “Phàm những gì kẻ thù phản đối, chúng
ta phải bảo vệ, phàm những gì kẻ thù ủng hộ, chúng ta phaỉ phản đối”.Cách mạng
văn hoá là một thời đại trắng đen phân minh như vậy. Kẻ thù vĩnh viễn sai lầm. Chúng ta
vĩnh viễn đúng đắn. Không ai dám nói thử: Kẻ thù cũng
có thể có lúc đúng đắn.Chúng ta
cũng có thể có khi sai lầm. Sau Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đã từng nói một
câu lại có thể đại diện đặc trưng cơ bản cuả thời đại hiện nay: “Mèo trắng
mèo đen
mặc kệ, cứ bắt được chuột là mèo tốt”. Câu nói này của
Đặng Tiểu Bình đã đảo lộn giá trị quan xã hội của Mao Trạch Đông, hình như chỉ
ra một sự thực tồn tại đã lâu ở xã hội Trung Quốc: Sai lầm và đúng đắn thường
thường tồn tại trong cùng một sự vật, hơn nữa cũng thường thường tồn tại trong thay đổi lẫn nhau. Câu nói này
đồng thời cũng chấm dứt cuộc tranh luận về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản
trong phát triển kinh tế của Trung Quốc.
Vậy
là Trung Quốc từ thời đại đơn sắc chính trị thống soái Mao Trạch Đông chuyển
sang thời đại đa màu kinh tế trên hết của Đặng Tiểu Bình. Thời kỳ cách mạng văn
hóa chúng tôi thường nói: “Thà lấy cỏ của chủ nghĩa xã hội,cũng không thiết cây
giống của chủ nghĩa tư bản”. Trung Quốc hiện giờ chúng tôi không phân biệt rõ
thế nào là thuộc về tư bản chủ nghĩa, thế nào là thuộc về chủ nghĩa xã hội. Hay
nói một cách khác, Trung Quốc hiện nay cỏ và cây giống đã trở thành cùng một loại
thực vật.
Có
khi, hàm nghĩa của một từ từ đơn thuần đi đến phức tạp cũng sẽ triết xạ ra sự
biến thiên xã hội. “Khoảng cách”là một từ như vậy.
Trung
Quốc hơn ba mươi năm trước, đối với dân cư thị trấn thành phố mà nói không có
khoảng cách xã hôị nổi bật.Nhưng ngày nào chúng tôi cũng nói khoảng cách, dùng
một phương thức trống rỗng nói về khoảng cách trống rỗng.Mỗi người đều đang tìm
khoảng cách về tư tưởng cho mình. Khoảng cách này đối chiếu với những nhân vật
tiên tiến như Lôi Phong. “Học tiên tiến,
tìm khoảng cách”,là câu nói thịnh hành hiện nay.Hàng ngày chúng ta giống như
chú tiểu niệm kinh, nói bô bô ngoài miệng từ “khoảng cách” mà lòng thì chai lì.
Lời nói cũ rích như chiếc bánh xe lăn hết vòng nọ đến vòng kia. Trong bài tập
làm văn của chúng tôi từ tiểu học đến trung học, gần như tất cả học sinh đều viết
lặp đi lặp lại hết lần này đến lần khác,làm thế nào để rút ngắn khoảng cách tư
tưởng dưới sự chỉ dẫn của tinh thần Lôi Phòng. Giúp bà lão hàng xóm ra giếng
gánh nước. Năm lớp mười một một thầy giáo ngữ văn của chúng tôi đúng là không
nhịn nổi, ngón tay gõ lên sổ bài tập xếp trên bục, dạy chúng tôi:
-
Các em đã xách cho bà lão hàng xóm mười năm nước giếng, tại sao không thay một
ví dụ khác? Ra phố mua gạo cho ông lão láng giềng.
Sau
hơn ba mươi năm, chúng ta vẫn leo lẻo nói mãi khoảng cách, đương nhiên đã không
còn là khoảng cách tư tưởng trống rỗng, mà là khoảng cách xã hội thực tế. Khoảng
cách giầu nghèo, khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, khoảng cách giữa các
khu vực, khoảng cách phát triển, khoảng cách thu nhập, khoảng cách phân phối...Khoảng
cách xã hôi lớn lao tất nhiên sẽ đem đến hành vi cá thể và sự kiện quần thể quá
khích. Ngày xưa chúng tôi lấy gạch đánh anh nông dân trẻ, anh ấy luôn luôn
không đấm thụi lại, nhưng hiện nay một nhân viên quản lý thị trường không có bất
cứ hành động bạo lực nào, anh ta chỉ trung thành với nhiệm vụ chức trách, tịch
thu xe ba bánh và hàng hóa của những ngươì buôn bán nhỏ lại bị tiểu thương tiểu
chủ dùng dao đâm chết.Đây là gì? Theo tôi nguyên nhân là ở đây. Khi một từ vựng
“khoảng cách” từ nghĩa hẹp đi đến nghĩa rộng, sau khi từ trống rỗng biến thành
chân thực, cũng biểu đạt sự rộng rãi của vấn đề xã hội Trung Quốc hiện nay và sự sâu sắc hóa của mâu thuẫn xã hội.
Tiến
trình chủ nghĩa xã hội của thời đại Mao Trạch Đông, tuy phát triển chậm, hiệu
quả kinh tế thấp, nhưng khoảng cách xã hội quả thực không ngừng thu nhỏ. Cuối
cùng Mao Trạch Đông không giải quyết khoảng cách giữa thành phố và nông thôn.
Sau ba mươi năm cải cách mở cửa do Đặng Tiểu Bình dẫn dắt, tổng lượng kinh tế
Trung Quốc mở rộng nhanh chóng,tổng giá trị sản lượng sản xuất trong nước từ 364, 5 tỉ năm 1978 tăng lên 21087,1 tỷ đồng
năm 2006, tăng trưởng gần 60 lần. Nhưng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn
không những không được rút hẹp, ngược lại đã tăng lên. Theo số liệu nhà nước
Trung Quốc công bố , tỉ lệ chênh lệch thu nhập dân cư thành phố năm 2007 mở rộng
tới 3,33:1, khoảng cách tuỵệt đối đạt tới 9646 đồng nhân dân tệ. Đây là một năm
có khoảng cách thu nhập dân cư thành thị và nông thôn lớn nhất kể từ cải cách mở
cửa đến nay.
Ngày
1 tháng 5 năm2006, bạn tôi Thôi Vĩnh Nguyên, người hướng dẫn chương trình nổi
tiếng của CCTV, dẫn nhóm qua ca mê ra và 26 người đến từ các ngành nghề khác
nhau, đi lại con đường trường chinh của Hồng quân Đảng cộng sản Trung Quốc ngày
xưa. Lịch trình 250 ngày với chặng đường dài hơn 6100 km. Họ đã trải qua bốn mùa xuân hạ
thu đông, qua mưa gió bão tuyết,vượt núi
tuyết, băng thảo nguyên, cuối cùng đã vinh quang trở về đến Bắc Kinh ngày 7
tháng 1 năm 2007.
Thôi Vĩnh Nguyên mang về gia đình rất nhiều câu truyện vui, cũng mang rất
nhiều câu truyện chua xót. Sau đó có một hôm, chúng tôi ngồi với nhau, anh đã kể
cho chúng tôi một vài câu truyện.
Tôi xin kể lại một câu truyện trong
đó. Năm 2006, trong thời gian thi đấu
bóng đá cúp thế giới tại nước Đức, đội ngũ trường chinh vi hình của Thôi
Vĩnh Nguyên đi đến một khu vực nghèo khổ nào đó ở Tây nam Trung Quốc. Anh bỗng
nẩy ra ý hay, chuẩn bị tiến hành một trận bóng đá với học sinh tiểu học địa
phương. Tuy không thể phục chế cảnh cuồng nhiệt của Béc Lanh, cũng định thử tạo
nên một không khí vui vẻ của cúp thế giới taị chốn hang cùng ngõ hẻm nghèo khó.
Nhưng Thôi Vĩnh Nguyên lập tức đứng
trước hai nan đề,một là trong cửa hàng huyện lỵ địa phương không có bóng đá, anh liền sai hai chiến hữu
“trường chinh”lái xe ra thành phố của
chính quyền địa khu mua bóng đá. Sau đó là nan đề thứ hai, học sinh tiểu
học của địa phương không những xưa nay chưa xem thi đấu bóng đá bao giờ, hơn nữa
từ trước đến nay cũng chưa hề nghe nói trên thế giới này còn có một phong trào gọi là bóng đá.
Thôi Vĩnh Nguyên đã tìm một bãi cỏ rất rộng, ở địa phương có rất
nhiểu bãi cỏ như thế này, lại sai
thợ mỹ nghệ của nhóm quay ca mê ra “Trường chinh” làm một khung gôn bóng đá, dựng trên bãi cỏ. Hơn một ngàn em học sinh tiểu học
địa phương ngồi vây chung quanh bãi cỏ, Thôi Vính Nguyên bắt đầu lên lớp vỡ
lòng về bóng đá.
Giáo
dục của anh bắt đầu từ điểm bóng như thế nào. Anh đặt quả bóng đá mới tinh lên
chỗ cách xa cửa gôn khung gỗ 12 mã, long trọng đẩy anh thợ camera của đoàn ra .
Đây là một người có lối đá giỏi nhất trong đội ngũ “ trường chinh”.
Thợ
quay camera này đã quen với đá bóng không có trọng tài và không có người xem, lần
đầu tiên có hơn một nghìn đôi mắt nhìn vào bản thân, tự nhiên anh thấy tâm lý
căng thẳng. Tuy khi chạy giúp phối hợp có một số người đóng vai chuyên nghề, nhưng trong giây
lát điểm bóng vụt cao lên, cũng tỏ ra trình độ nghiệp dư. Quả bóng vượt qua cầu
môn như viên đạn cao xạ pháo bắn đi vạch một đường vòng cung như chiếc cầu vồng
trong không trung rồi rơi xuống đất lăn thật nhanh, cuối cùng đã lăn vào đống
phân trâu.
Thợ
quay camera xấu hổ cúi đầu chạy gằn đến chỗ bãi phân trâu nhặt bóng đem ra ao nước rửa sạch phân trâu dính trên
quả bóng, sau đó lại để quả bóng vào vị trí điểm bóng.
Tiếp
theo Thôi Vĩnh Nguyên bảo các em học sinh tiểu học xếp hàng luyện tập đá phạt
điểm bóng.
Sau
đó đã xuất hiện cảnh tượng khó quên, mỗi em học sinh sau khi đá bóng đều chạy
theo quả bóng, sau khi bóng thôi lăn liền ôm quả bóng đá ra ao nước rửa sạch rồi
đặt quả bóng về vị trí điểm bóng ban đầu. Chúng cứ tưởng rửa sạch bóng đá là quy tắc của thi đấu bóng
đá.
Câu
chuyện có thật này xảy ra vào mùa hè năm 2006. Trong ngày hè này có hơn 100 triệu
người Trung Quốc theo dõi cúp thế giới nước Đức qua vô tuyến truyền hình. Trên
cúp thế giới Hàn Quốc - Nhật Bản năm 2002, thi đấu tiểu tổ giữa Trung Quốc và
Brazin, vô tuyến truyền hình đã phát lại, thu hút con mắt của 200 triệu người
Trung Quốc. Trước đó năm 1978, Trung Quốc bắt đầu phát thi đấu bóng đá cúp thế
giới, cũng trong năm ấy thi đấu vòng loại bóng đá của Trung Quốc chính thức bắt
đầu.
Trung
Quốc hiện nay rất đông trẻ con ở các địa phương đã quen thuộc với các nhãn mác
thể dục thể thao như Naike và Aditas, nhưng các em ở địa khu vực nghèo khổ tây
nam vẫn chưa hề nghe nói đến bóng đá. Một thầy giáo Trung học ở Bắc Kinh nói với
chúng tôi, học sinh hiện nay vì ngày nào cũng mặc quần áo đồng phục của nhà trường,
chúng không thể so sánh trên quần áo thể thao, thì tìm cách so sánh giầy thể
thao đi trên chân. Ví dụ đều là giấy bóng rổ Naike, lại còn so sánh anh nào đi
giầy thế hệ thứ mấy của Jdan, anh nào đi giầy thế hệ thứ mấy của kebi.
Trung
Quốc là một đất nước đất rộng, người đông, kinh tế phát triển không cân bằng,
trong thời kỳ giữa những năm 80 của thế kỷ trước, dân trong thành phố ở khu vực
ven biển miền đông uống cocacola một cách phổ biến, nhưng đến thời kỳ giữa những
năm 90, dân ở khu vực miền núi trung bộ đi ra tỉnh ngoài làm thuê, khi trở về
quê ăn tết mang cocacola về làm quà cho gia đình, bởi vì bà con của quê hương họ
vẫn chưa từng trông thấy cocacola. Cùng người Trung Quốc, cùng là cocacola
nhưng ở những vùng giàu có và vùng nghèo túng lại có khoảng cách đến 10 năm.
Trong
thời gian Olympic Bắc Kinh 2008, rất nhiều người đời sống khó khăn mơ ước được
xem sân vận động Tổ Chim và Khối nước (bể bơi quốc gia) tượng trưng cho Trung
Quốc hiện nay, họ đáp tàu hỏa và xe ca đường dài từ tỉnh ngoài đổ về Bắc Kinh.
Với vẻ mệt mỏi đường dài và tâm lý hưng phấn, dọc đường, họ dò hỏi, hy vọng đến
nhìn sân vận động Tổ Chim và khối nước, nhưng vé ra vào cửa quá hiếm,vé mua lại
trên tay con buôn vé lại quá đắt. Có thể là xuất phát từ góc độ bảo đảm an toàn,
những người không có vé vào không thể đi vào công viên Olympic có sân vận động
Tổ Chim và Khối nước(Bể bơi quốc gia) phải có vé xem triển lãm du lịch mới được
vào. Những đồng bào lặn lội đường dài của tôi đã đến Tổ chim và Khối nước nhưng
ngay đến vé đi du lịch triển lãm cũng không có đành phải đứng ở chỗ rất xa chụp
ảnh kỷ niệm với sân vận độngTổ chim và Khối nước. Mặc dù vậy họ vẫn tươi cười hạnh
phúc. Trong lúc đó trong sân nhà thi đấu Tổ Chim và Khối nước(bể bơi quốc gia)
lại bỏ trống rất nhiều chỗ ngồi, mà những chỗ trống đều là những ghế ngồi rất lý
tưởng.
Những
đồng bào khác của tôi, tức là những quan chức và quý nhân có vé vào cửa với vị
trí tốt nhất. Họ đã quen với lối sống vung vãi tiền của, cũng với thái độ như
thế họ bỏ tiền ra mua vé ra vào xem thi đấu ở sân vận động Tổ chim và Khối nước.
Thậm chí họ khỏi cần suy nghĩ những vé ra vào bỏ không trong túi họ quý báu biết
chừng nào đối với những người Trung Quốc khác. Họ cũng không hề quan tâm đến đông đảo dân thường bóp mồm bóp miệng đông như
thế đến Bắc Kinh lại không có vé vào xem trong công viên Olympic Bắc Kinh.
Trung
Quốc ngày nay có thể nói là một Trung Quốc có khoảng cách khổng lồ. Hình như
chúng ta đang đi trong một hiện thực: Một bên là tường gẫy vách đổ, một bên là phồn
hoa rực rỡ. Hay nói cách khác chúng ta đang ở trong một rạp kịch kỳ quái, trên
cùng một sân khấu nửa bên này đang diễn kịch vui, nửa bên kia đang diễn bi kịch.
Khi
những nhà cao tầng có nhãn mác nổi tiếng như tòa lớn LV, tòa lớn Gucci lần lượt
mọc lên sừng sững trong những khu phố phồn hoa ở thành thị Trung Quốc, khi những
cuộc triển lãm hàng hóa xa xỉ như triển lãm xa xỉ phẩm ở Thâm Quyến, ở Quảng
Châu, và Thượng Hải liên tục được tổ chức bày bán và đã thành công lớn, ví dụ
như triển lãm hàng xa xỉ phẩm ở Thâm Quyến mức tiêu thụ hàng xa xỉ phẩm của ba
loại nhãn mác lớn chỉ trong ba ngày đã vượt quá 200 triệu nhân dân tệ. Thế là
người ta đột nhiên nhận thấy chỉ trong chớp mắt Trung Quốc đã từ một căn cứ gia
công xa xỉ phẩm, biến thành một căn cứ tiêu dùng xa xỉ phẩm. Cơn khủng hoàng
tài chính tiền tệ khiến cho mặt hàng xa xỉ bị ghẻ lạnh trên thị trường Âu Mỹ
truyền thống, nhưng trên thị trường Trung Quốc vẫn biểu hiện nóng bỏng.
Tháng
ba năm 2009, ICSC của Mỹ ra tuyên bố cho biết, chủ bán lẻ hàng xa xỉ phẩm của Mỹ
trong tháng 2 và mức tiêu thụ trong các cửa hàng đã giảm xuống 19,2 %, so với tốc
độ giảm của cả ngành bán lẻ cao 19,1%. Từ tháng 6 năm 2008 đến nay tiêu thụ
hàng xa xỉ phẩm của nước Mỹ luôn luôn là mảng biểu hiện kém nhất trong thành
tích của ngành bán lẻ. Nhưng một bản báo cáo mới đây cho là thịnh nhất, thì nói
tỷ lệ tăng trưởng năm về mức tiêu dùng hàng xa xỉ phẩm Trung Quốc năm 2008 là
khoảng 20%. Đến năm 2015 tỷ lệ tăng trưởng năm sẽ khoảng 10%. Lúc đó tổng mức
tiêu dùng hàng xa xỉ phẩm của Trung Quốc có hy vọng vượt quá 11,5 tỷ USD trở
thành nước tiêu dùng hàng xa xỉ phẩm đầu tiên của thế giới, chiếm khoảng 29% tổng
mức tiêu dùng toàn cầu. Báo cáo nghiên cứu của hiệp hội chiến lược nhãn mác
Trung Quốc càng khủng khiếp hơn, số người tiêu dùng có khả năng mua sản phẩm nổi
tiếng Quốc tế của Trung Quốc hiện nay đã lên tới 13%, năm 2010 sẽ đạt tới 250
triệu người.
Trong
lúc đó sự nghèo khổ và đói kém cũng loang ra khắp nơi ở Trung Quốc. Những câu
chuyện khiến ta đau lòng luôn luôn dội vào tai.
Một
cặp vợ chồng thất nghiệp đã lâu đem con trai nhỏ của họ về quê, trên đường về
nhà họ đi qua một chỗ bày bán hoa quả, trông thấy trong nhiều loại hoa quả bày
bán có chuối tiêu giá rẻ, cậu ấm xin bố mẹ mua cho một quả, chỉ cần một quả là
được. Nhưng hai bố mẹ nghèo khổ tới mức móc hết tiền trong túi vẫn không đủ mua
một quả chuối, đành phải kéo con đi qua cửa hàng. Thằng bé cất tiếng khóc to,
đã lâu lắm rồi nó chưa từng được ăn chuối, gần như nó đã quên chuối có mùi vị
gì. Nó bị bố mẹ lôi xềnh xệch về nhà trong tiếng khóc thương tâm và cứ tiếp tục
khóc mãi. Tiếng khóc dai dẳng của thằng bé khiến bố nó bực mình đã giơ tay đánh
con. Nhưng cậu bé vẫn cứ khóc một cách dai dẳng, mẹ nó chạy đến đẩy chồng ra,
thế là hai bố mẹ cãi nhau. Tranh cãi giữa hai bố mẹ mỗi lúc một dữ dội, cộng với
tiếng khóc đòi ăn chuối tiêu của thằng bé khiến ông bố đột nhiên cảm thấy bi
ai. Rồi bi ai lại nhanh chóng diễn biến thành thù hận. Người bố này thù hận bản
thân, hận mình kém cỏi, hận mình không có việc làm, không có thu nhập, ngay đến
nguyện vọng muốn ăn một quả chuối của thằng con cũng không đáp ứng nổi. Tâm trạng
thù hận này khiến anh bước lên ban công, mất hết lý trí, không quay đầu lại, từ
trên ngôi nhà cao hơn 10 tầng anh nhảy xuống đất. Vợ anh thét lên đuổi theo, chạy
xuống hơn 10 cầu thang nhìn thấy chồng nằm trên vũng máu. Chị quỳ xuống đất ra
sức ôm chồng, gọi tên anh, nhưng anh không có phản ứng gì. Một lát sau chị cảm
thấy chồng đã chết, chị đột nhiên bình tĩnh trở lại không gào khóc nữa. Chị đặt
xác chồng xuống rồi đứng lên về nhà, chị thẫn thờ đi vào cầu thang điện. Khi về
đến nhà cậu con trai nhỏ tuổi không biết đã xảy ra chuyện gì vẫn khóc lóc vì một
quả chuối. Trong cái nhìn chăm chú của đứa con trai khóc lóc, người mẹ đã tìm
thấy một sợi dây thừng, chị bê một chiếc ghế ra giữa nhà, sau khi đứng lên ghế
chị thong thả buộc sợi dây thừng lên chiếc móc sắt treo đèn, sau khi quấn dây
thòng lọng vào cổ mình, chị trông thấy thằng bé khóc lóc ngồi trong ghế nhìn mẹ
một cách khó hiểu, chị thò đầu ra khỏi nút thòng lọng, nhảy xuống ghế đi đến
trước mặt thằng bé thay đổi hướng của con trai và chiếc ghế nó ngồi, để con
trai quay vào lưng mình, sau đó chị lại trở về đứng lên ghế, lại thò cổ mình
vào thòng lọng, chị đau đớn nhìn lưng đứa con đang khóc,rồi đá đổ ghế treo cổ tự
vẫn. Hai bố mẹ đã chết đứa con vẫn khóc liên tục. Thằng bé bây giờ khóc lóc
không còn là vì một quả chuối.
Tôi
xin kể một câu chuyện khác cũng là câu chuyện đôi vợ chồng thất nghiệp và đứa
con. Đứa con ở đây là một đứa con gái học tiểu học, cháu lên cơn sốt trán nóng
hầm hập, cháu xin bố mẹ cho vào bệnh viện khám bệnh. Bố mẹ nói nhà không có tiền,
hơn nữa cả hai bố mẹ đều mất việc phải đi kiếm ăn không có thời gian đưa con đi
bệnh viện, cô bé rất biết điều đề nghị bố mẹ sang nhà hàng xóm mượn 20 đồng để
mình tự đi, em có thể tìm được bệnh viện.
Bố đẩy cho mẹ, mẹ đẩy cho bố đi vay tiền. Hai bố mẹ không ai muốn đi và đã cãi
nhau. Đôi vợ chồng nghèo khổ này đã nhiều lần vay tiền nhà hàng xóm, hơn nữa
luôn luôn không trả nổi, cho nên không người nào dám đi vay tiền. Cô gái thấy bố
mẹ mình cãi nhau liền khuyên bố mẹ và nói mình không đi bệnh viện khám bệnh nữa.
Hai bố mẹ thôi cãi nhau, con gái bảo con sốt cao đầu choáng váng không muốn đi
học, mà muốn vào buồng ngủ, hai bố mẹ đã đồng ý yêu cầu này của con. Cô bé đi
vào một mình, người bố ra khỏi nhà tìm việc làm, người mẹ thu dọn bếp núc, khi
chuẩn bị ra khỏi nhà, chị vào buồng con gái xem con đã ngủ chưa, chị khẽ đẩy cửa
buồng, thì nhìn thấy con gái đã dùng khăn quàng đỏ thắt cổ. Thường ngày cô bé
này rất yêu quý khăn quàng đỏ, tối nào trước khi đi ngủ cũng lấy tay vuốt phẳng
phiu khăn quàng đỏ và gấp lại cẩn thận, sáng sớm đi học đứng trước gương thắt cẩn
thận khăn quàng đỏ lên cổ. Cô bé cảm thấy khăn quàng đỏ là vật trang sức đẹp nhất
mà mình có.
Tôi còn rất nhiền câu chuyện tương tự có thể kể
ở đây. Không phải tôi muốn kể hết chuyện bất hạnh này đến chuyện bất hạnh kia
đâu. Cuộc sống hiện thực của chúng tôi ngày nào cũng kể chuyện bất hạnh với
tôi. Đương nhiên hiện thực của chúng tôi cũng ngày ngày kể với tôi hết chuyện
vinh quang này đến chuyện vinh quang khác.
Hiện
nay số người có giá trị thu nhập cao trên 10 triệu nhân dân tệ đã lên đến mấy
chục vạn. Theo báo cáo tài sản của Hồ Nhuận năm 2009 số người giàu 10 triệu đã
đạt tới 825000 người. Con số 825000 người này còn kể cả 51000 nhà giầu trăm triệu
. Báo cáo của Hồ Nhuận cho biết chi dùng bình quân hàng năm của các nhà giàu
Trung Quốc là 2 triệu nhân dân tệ.
Khoảng
cách to lớn hình thành từ đó là, nếu lấy thu nhập hàng năm chỉ có 600 nhân dân
tệ để tính thì Trung Quốc có 30 triệu người nghèo, nếu tăng thu nhập hàng năm
lên đến 800 đồng nhân dân tệ thì số người nghèo ở Trung Quốc sẽ là 100 triệu.
Tháng
2 năm 2009 tôi sang giảng ở UBC Vancouver, khi nói đến số người nghèo thu nhập
hàng năm là 800 nhân dân tệ đã đạt tới 100 triệu, có một lưu học sinh Trung Quốc
đứng dậy nói: Tiền không phải là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá hạnh phúc.
Lời
nói của người lưu học sinh Trung Quốc này khiến tôi rùng mình. Bởi vì đây không
phải là tiếng nói của một người mà là tiếng nói của một quần thể người Trung Quốc.
Họ chìm đắm trong cảnh tượng ngày càng phồn hoa của Trung Quốc, nhưng không
quan tâm đến hơn100 triệu người đang sống trong cảnh bần cùng khó tưởng tượng.
Tôi nghĩ bi kịch thực sự của chúng ta có lẽ là ở đây: không thấy sự tồn tại của
bần cùng đói rét còn đáng sợ hơn là bần cùng đói rét.
Tôi
nói với người lưu học sinh Trung Quốc ấy:
Điều
chúng ta thảo luận không phải là tiêu chuẩn của hạnh phúc mà là một vấn đề xã hội
có tính chất phổ biến. Nếu anh là người thu nhập hàng năm chỉ có 800 nhân dân tệ,
anh nói câu này sẽ được kính nể. Nhưng anh đâu phải người như vậy.
Trong
30 năm qua Trung Quốc đã sáng tạo ra những kỳ
tích kinh tế cả thế giới ai cũng biết. Kinh tế bình quân hàng năm trong 30 năm đã tăng trưởng 9%. Sang năm 2007
Trung Quốc đã trở thành nước kinh tế lớn thứ ba trên thế giới.Nhưng đằng sau số
liệu vinh quang này lại là một số liệu khiến người ta bất an. Thu nhập năm bình
quân đầu người vẫn đứng thứ 100 trên thế giới. Hai khoản này phải là chỉ tiêu
kinh tế tiếp cận hoặc cân bằng. Trung Quốc hiện nay khoảng cách chênh lệch lại
lớn lao như thế. Nhóm số liệu này đã chứng tỏ là chúng ta hôm nay đang sống
trong một xã hội mất cân bẳng.
Sự
mất cân bằng của đời sống xã hội tất nhiên sẽ đem đến sự mất cân bằng của mộng
tưởng. Mấy năm trước CCTV trong chương trình tết thiếu nhi ngày 1 tháng 6 đã phỏng
vấn các em ở các địa phương Trung Quốc, họ hỏi các em tết ngày 1 tháng 6 các em muốn được tặng quà
gì nhất? Một em bé nam ở Bắc Kinh nói em muốn có một chiếc máy bay Boing thật sự,
một em nữ ở Tây Bắc thì e thẹn nói em muốn có một đôi giầy bóng đá màu trắng.
Hai
em bé Trung Quốc cùng tuổi đều có mộng tưởng cách xa đến thế. Đối với bé gái
Tây Bắc này chỉ muốn được một đôi giày đá bóng màu trắng thông thường có lẽ
cũng xa vời như em trai ở Bắc Kinh muốn có một chiếc máy bay Boing.
Kỳ
thực chúng ta luôn luôn sống trong khoảng cách cực lớn. Chúng ta đã từng nói:
Trung Quốc thời cách mạng văn hóa và Trung Quốc thời nay giống như giữa thế kỷ
của Châu Âu và hiện tại ở Châu Âu. Một người Châu Âu sống 400 năm mới có thể từng
trải hai thời đại khác nhau một trời một vực này, còn một người Trung Quốc chỉ
cần 40 năm là đủ.
Khoảng
cách giữa mộng tưởng của hai em ở Bắc Kinh và Tây Bắc thể hiện hai cực đoan, giống
như bên cạnh vở kịch vui tăng trưởng với tốc độ nhanh của tiêu dùng hàng xa xỉ
phẩm, diễn một bi kịch chỉ vì một quả chuối tiêu mà cả gia đình người mất, nhà
tan và vở bi kịch em gái dùng khăn quàng đỏ thắt cổ tự tử. Còn nữa, khi hàng
nghìn hàng vạn trẻ con Trung Quốc mặc Naike và đi giày bóng đá Atita thì em bé ở
vùng nghèo khổ nào đó của Tây Nam vẫn không biết bóng đá là gì. Đây là khoảng
cách của hiện thực chúng ta.
Những
ví dụ này có thể nói to lớn như khoảng cách của ví dụ thứ nhất tôi đã nêu, nữ
sinh trung học hơn ba mươi năm trước và nữ sinh trung học hiện nay là hai cực
đoan khác. Đây là khoảng cách của lịch sử chúng ta.
Khoảng
cách của lịch sử khiến một người Trung Quốc chỉ cần 40 năm đã trải qua biến động
400 năm của châu âu, nhưng khoảng cách của hiện thực lại chia người Trung Quốc
cùng thời đại sang thời đại khác nhau.
Em bé trai Bắc Kinh và em bé gái Tây Bắc vừa nói trên là hai em bé sống ở cùng
một thời đại, sự khác biệt giữa mộng tưởng của các em khiến người ta chợt cảm
thấy một em sống ở Châu Âu hiện nay, còn em kia đang sống ở Châu Âu hơn 400 năm
về trước.
Đây
là Trung Quốc hôm nay, chúng ta không chỉ sống trong khoảng cách to lớn khủng
khiếp của hiện thực và lịch sử, cũng sống trong khoảng cách cực lớn của mộng tưởng.
Còn câu nói của một lưu học sinh Trung Quốc ở UBC Vancouver khiến tôi cảm thấy
chúng ta còn sống trong khoảng cách cực lớn về nhận biết xã hội.
Cuối
cùng tôi xin kể một câu chuyện ngắn gọn chân thực để kết thúc bài viết này. Đây
là câu chuyện xảy ra trong một thành phố nào đó ở miền Nam Trung Quốc trong cảnh
tượng phồn vinh đi lên, đầu người lúc nhúc trong siêu thị và những nhà cao tầng
hiện đại hóa mọc lên như rừng, một em học sinh nhỏ lớp 6 bị bắt cóc.
Hai
kẻ bắt cóc nghèo xơ nghèo xác không có một đồng xu dính túi lại không hề có
kinh nghiệm bắt cóc, chúng tìm khắp nơi cũng không kiếm đươc công ăn việc làm
đã đi đến quyết định liều lĩnh, đã không có kế hoạch chặt chẽ cũng không có sự
chuẩn bị đầy đủ, đã dám tức hứng bắt cóc em học sinh tan học về nhà. Chúng bịt
chặt mồm em bé, kéo em bé đang giãy dụa vào trong một nhà xưởng đang tháo dỡ.
Chúng đã chiếm đóng khu xưởng bỏ đi này, từ em học sinh chúng đã lấy được số điện
thoại di động của bố mẹ em, chúng đến trạm điện thoại công cộng ở bên đường phố
gần đó gọi điện cho mẹ em bé đòi bà mang tiền đến chuộc con. Chúng đều không biết
nên đi đến chỗ xa hơn để gọi cuộc điện thoại đòi tiền chuộc này, căn cứ vào số
điện thoại để lại trên máy di động của mẹ em bé, cảnh sát khu vực đã xác định địa
điểm của kẻ bắt cóc cho nên họ đã rất nhanh chóng truy nã tìm ra vụ án.
Hai
tên bắt cóc khi đòi tiền chuộc không có tiền mua hộp cơm, một tên trong đó mượn
được 20 đồng nhân dân tệ mua 2 hộp cơm, một hộp cho em bé, còn hộp kia cho hai
kẻ bắt cóc. Về sau em học sinh được cứu đã nói với cảnh sát:
-
Chúng
nó nghèo quá, thả chúng nó ra chú ạ!
Dư Hoa
viết xong ngày 28 tháng 8 năm
2009
Dịch xong ngày 02 tháng 09 năm 2012
(dịch theo cuốn: “Trung Quốc trong 10 từ vựng)
Kinh khủng thay khoảng cách của xã hội Trung Quốc hiện nay!
Trả lờiXóa