LẬP MƯU LẤY CHỒNG
Tôn Phương Hữu
Vũ Công Hoan dịch
Triệu
Điện Thần sinh
tại Chợ Nhỏ Vương Điếm nam Trần Châu năm cuối Quang Tự triềuThanh. Ông thanh bần cương trực, say mê thư pháp.
Tác phẩm của ông chương phép nghiêm cẩn, bảng biển hùng hồn, khỏe khoắn, nét chữ
thể khải nhỏ nhắn thanh tú, đẹp đẽ, ai sưu tầm cất giữ cũng coi là vật quý hiếm.
Bố
đẻ Triệu Điện Thần là ôngTriệu Ngọc Đường bán cám đậu trên Chợ Nhỏ mưu sinh. Bởi
chịu nhiều nỗi khổ của kẻ mù chữ, nên ông quyết chí nuôi con ăn học. Ông chọn
Trương Trấn Hoài làm thày cho con. Trương Trấn Hoài cũng người Vương Điếm, giỏi
thư pháp, thấy Điện Thần có linh khí, liền khuyến khích cậu khổ luyện thành
tài. Thời ấy, nhà họTriệu nghèo túng, nhưng để rèn cho Điện Thần học thư pháp, không
bao giờ ông tỏ ra cò kè bủn xỉn. Ông mua về hàng bó giấy, yêu cầu mỗi buổi tối,
con trai luyện viết mười sáu chữ to trên biển(bốn cái văn biển), cậu thường lấy
bùn nhão hoặc xanh chàm làm mực, cứ mười
ngày lại treo lên một lần, đối chiếu cái trước với cái sau, tổng kết theo từng thẻ.
Để đốc thúc con trai luyện chữ,ôngTriệu Ngọc Đường ngoài ba mươi tuổi bắt đầu hạ
quyết tâm khổ công học chữ, đọc thiếp xem thẻ. Để nhận biết nhiều chữ, ngay ở
chuồng xí trong nhà, ông cũng dán chữ. Khi ngồi đại tiện thường lấy que làm bút,lấy
đất làm giấy viết phỏng theo. Đúng là dốc hết nỗi khổ tâm của người làm bố.
Triệu
Điện Thần có lòng yêu chuộng đặc biệt đối với thư pháp thể Âu, ngày ngày đêm
đêm cậu đọc thiếp và viết phỏng theo, mùa rét cũng như mùa mùa nóng không mùa
nào cậu bỏ học. Được bố đẻ khổ tâm rèn dũa,được thầy dạy nghiêm khắc chỉ dẫn đến
nơi đến chốn, bản thân chịu khó cố gắng, mới mười mấy tuổi, cậu đã được làng xã
biết đến tài năng thư pháp. Thầy dạy Trương Trấn Hoài thấy học trò ham học rất
mừng, còn làm thơ động viến khuyến khích:
“Dăng
đầu tù kinh Âu dương thể. Hồng trạo thâm nguyên vệ phu nhân.
Mạn vị vu ông dự tiểu tử, hoặc nghi dật thiểu
thị tiền thân.”
Năm
mười sáu tuổi, thể chữ Âu do Triệu Điện Thần viết có thể lồng vào thiếp vừa
khít, hoặc một chữ viết thành nhiều xếp lại trùng hợp không sai một ly, giống y
như đúc từ một cỗ máy. Vì thế được thầy Trương Trấn Hoài rất yêu thích và coi
trọng. Trương Trấn Hoài giới thiệu Triệu Điện Thần trở thành môn sinh của ngài
Đoạn Lão Tuyền.
Sau
khi học ngài Đoạn Lão Tuyền, Triệu Điện Thần lại càng nổi tiếng, thường có người
đến mời Triệu viết văn bia. Tác phẩm thư pháp của Triệu đã thịnh hành ở bảy tám
huyện miền đông tỉnh Hà Nam.
Cách
Vương Điếm không xa có một thôn trang gọi là thôn Thích Lầu. Trong thôn có một
nhà giầu ruộng sâu trâu nái,mái ngói sân gạch, chủ nhà là Thích Cảnh Tuyền, bố
ông qua đời đã ba năm, cần phải dựng bia, liền mời Triệu Điện Thần viết văn
bia.
Thích
Cảnh Tuyền có một cô con gái, tên là Thích Nhung Nhung vừa tròn mười chín tuổi,
lúc ấy đang học trường cao trung Nữ tử Trần Châu,cũng rất mê thư pháp. Thấy Triệu
Điện Thần không chỉ viết đẹp, lại cũng đẹp trai, cô liền xin bố dạm hỏi trước mặt.
Ông Thích Cảnh Tuyền tuy cũng ưng ý Triệu Điện Thần, nhưng còn e hai nhà không
môn đương hộ đối, chênh nhau quá lớn, nên không đồng ý. Thích Nhung Nhung sinh
tính chanh chua. Vừa nghe bố không bằng lòng, liền sị mặt nói:
-
Bố nên đi hỏi anh ấy đã lấy vợ chưa cái đã. Nếu anh ấy đã đính hôn, coi như lời
nói của con bằng không! Nhưng nếu anh ấy chưa lấy vợ, xin bố sửa đổi quan niệm
cổ hủ môn đương hộ đối của bố đi!
Nghe
con gái nói thế, ông Thích Cảnh Tuyền giận lắm. Ông bảo:
-
Sao lại
đi hỏi trước mặt người ta chuyện này?
Thích Nhung Nhung
đáp:
-
Thế
thì nếu bố không hỏi, con sẽ tự đi hỏi.
Chưa dứt lời cô đã chạy
ra sảnh lớn, hỏi Triệu Điện Thần.
-
Thầy
Triệu đã lấy vợ chưa?
Bởi
giọng quá to, Triệu Điện Thần giật nảy mình, tay run run, con chữ dưới bút đã
biến dạng. Triệu Điện Thần đang định nổi nóng, ngẩng đầu lên nhìn thấy cô gái lớn
nhà họ Thích, hết sức ngạc nhiên, một lúc sau mới ngẩn người hỏi:
-
Tiểu
thư nói gì vậy?
Thích Nhung Nhung
đáp:
-
Tôi hỏi
anh đã lấy vợ chưa?
Lúc này Triệu Điện
Thần đã hiểu. Mặt đỏ tía tai lâu lắm mới ấp úng:
-
Vẫn...vẫn
chưa!
Vừa
nghe Triệu Điện Thần nói chưa lấy vợ, Thích Nhung Nhung vui mừng ra mặt reo to:
-
Hay
quá!
Reo
xong cô âu yếm nhìn Triệu Điện Thần một cái rồi vội lảng đi.
Nhìn
cái bóng lưng ong của Thích Nhung Nhung, Triệu Điện Thần bần thần như ngây dại,
không rõ cô gái lớn chủ nhà đột nhiên đến hỏi việc lớn cả đời của mình là có ý
gì. Đương nhiên, hình như anh dự cảm có điều gì đó, chỉ có điều không dám nghĩ
sâu hơn. Bởi vì anh thừa biết, không môn đương hộ đối là một hố sâu, là bức chắn
rất khó vượt qua. Nghĩ vậy, anh bỗng dưng thở dài một tiếng, cúi xuống nhìn con
chữ bị Thích Nhung Nhung làm giật mình viết xẹo xọ. Anh gượng cười, cầm bút viết
lại. Điều khiến Triệu Điện Thần bất ngờ hơn là anh vừa cầm bút định viết lại,chợt
nghe ở sân sau tiếng cô hầu hớt hải nói
to:
-
Đại
tiểu thư đã thắt cổ tự vẫn!
Sau đó là những tiếng
bước chân chạy hỗn tạp.
Triệu
Điện Thần rất sửng sốt, cũng hổi hả chạy ra khỏi phòng khách, định xem rút cuộc có chuyện gì xảy ra ở sân sau. Nhưng
vừa bước khỏi phòng khách anh bỗng dừng chân, nghĩ bụng, Thích tiểu thư tự vẫn,
chắc chắn là việc xấu trong gia đình, việc xâu xa trong nhà không được để loang
ra bên ngoài. Mình là khách, nếu đi vào trong buồng người ta há chẳng thất lễ?Thế
là anh chầm chậm trở vào phòng khách. Nhưng không biết tại sao anh lại rất lo lắng
cho Thích tiểu thư, hơn nữa lòng dạ anh rối bời, đứng ngồi không yên, mấy lần cầm
bút lên lại đặt xuống, anh không tài nào bình tĩnh nổi.
Khoảng
một giờ sau ông Thích Cảnh Tuyền bứơc vào phòng khách, sắc mặt khó đăm đăm. Ông
liếc nhìn Triệu Điện Thần nói:
- Có thể vừa nãy
Triệu tiên sinh đã biết chuyện con gái tôi thắt cổ tự vẫn. Quả tình không thể
nói giấu, việc này hoàn toàn tại lão phu. Con bé một lòng một dạ muốn cùng tiên
sinh kết duyên Tấn Tần, nhưng lão phu cảm thấy hai nhà Thích, Triệu gầu nghèo khác
hẳn, không môn đương hộ đối, không tán thành, nào ngờ con bé ương ngạnh, vào buồng
thắt cổ tự vẫn. Tôi hối hận quá đi thôi!
Triệu Điện Thần vội
vàng hỏi:
-
Thế,
có cứu được tiểu thư không?
Ông Thích Cảnh Tuyền
thở dài nói:
-
Cứu
thì cứu được, nhưng mất tiếng nói, có lẽ sẽ thành tàn tật suốt đời!
Triệu Điện Thần ngạc nhiên trợn mắt, đột
nhiên quỳ sụp xuống cầu xin ông Thích:
-
Thưa ông, Thích tiểu thư vì tôi không sợ sinh tử. Cô nhà không có tư tưởng môn
đương hộ đối, không chê nhà con nghèo, lẽ nào con vô tình vô nghĩa? Đừng nói cô
nhà chỉ là mất tiếng, cho dù cả đời cô nhà nằm liệt giường liệt chiếu, con cũng
xin nguyện hầu hạ cô nhà suốt đời thưa
ông!
Ông
Thích Cảnh Tuyền vừa nghe nói thế,không kìm nổi nước mắt tràn trề, nghẹn ngào
nói:
-
Triệu tiên sinh đã nói như vậy, con gái tôi đã không nhìn nhầm người! Nhưng suy
cho cùng đây là việc lớn trọn đời của các con. Ngày mai tôi sẽ tôi sẽ nhờ người
sang phủ xin làm thông gia, tiên sinh thấy thế nào?
Ngàn lời biết ơn vạn điều cảm tạ, Triệu Điện
Thần vội vàng viết lại văn bia, rồi về nhà báo tin vui với bố mẹ. Ông bà Triệu
Ngọc Đường lẽ đương nhiên hớn hở trước cuộc dạm hỏi này. Chẳng bao lâu họ cưới
nhau. giống như để bù lại nỗi ân hận đối với con gái,ông Thích Cảnh Tuyền không
những cho đem theo rất nhiều của hồi môn, mà còn ấn vào hòm nhiều tiền bạc.
Trong
đêm tân hôn, Triệu Điện Thần mở khăn trùm đầu cô dâu, trước hết anh cúi chào
Thích Nhung Nhung, âu yếm nói:
-
Tiểu thư có thể liều mình cho phép, khiến anh vô cùng cảm ơn.Tuy em đã mất giọng,
nhưng anh quyết không chê bỏ, nguyện chúng mình từ nay về sau thấu hiểu lòng
nhau!
Không
ngờ Thích Nhung Nhung lúc này lại hí hí cười thành tiếng. Cô nói:
-
Anh si thật hay si giả? Lẽ nào anh vẫn chưa nhận ra em đã dùng kế để san bằng
cái hố ngăn cách môn đương hộ đối giữa hai nhà chúng ta?
Triệu
Điện Thần vừa nghe Thích Nhung Nhung mở mồm nói, đầu tiên là ngạc nhiên, sau đó
anh mừng rỡ, tiếp theo anh vỗ bồm bộp vào đầu mình, nói rối rít:
-
Ôi, anh đần quá, sao anh không nghĩ đến điều này nhỉ? Chỉ có điều tại sao tiểu
thư lại yêu anh? Có thể nói xưa nay chúng mình vốn không quen biết nhau?
Thích
Nhung Nhung cười bảo:
-
Chữ anh viết kết cấu chặt chẽ, chương pháp rõ ràng xác đáng, chứng tỏ anh là
con người đức độ, làm việc biết giữ luật lệ, đáng được gửi gắm trọn đời.
Quả
nhiên, sau khi cưới hai người thương yêu thắm thiết, cuộc sống tốt lành, ăn nên
làm ra. Dưới sự dẫn dắt của Triệu Điện Thần, trình độ thư pháp của Thích Nhung Nhung
đã tiến bước dài, mấy năm sau danh tiếng cô đã lừng lẫy trong giới thư pháp Trần
Châu. Tương truyền, mấy chữ “Trần Châu bách hóa đại lầu” trong năm dân quốc
chính là do Thích Nhung Nhung viết lưu lại.
Vũ Công Hoan dịch ngày 19 tháng 2 năm 2013
(Theo Tiểu tiểu thuyết Trung
Quốc năm 2011)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét