BỂ TRÈM
Tản văn
(Trích thư từ với bạn xa)
ĐƯỜNG VĂN
Kraxnođa (CHLB Nga), ngày 10 – 4 – 2013
Anh
Đường Văn xa nhớ!
…
Mùa tuyết tan ở thủ phủ vùng
Cuban (nam Nga) đã thực sự bắt đầu.
Tuyết tan! Tuyết
tan! Hồn em mang mang!
Câu thơ viết từ hơn 30 năm trước
đăng trong tạp chí sinh viên mùa tuyết cuối cùng lại chập chờn trong
trí người lữ thứ… Thế là tôi xa nước, xa nhà, xa anh, người bạn vong
niên thân quý, cũng đã gần 30 năm rồi! Vì hoàn cảnh mưu sinh và số
phận câu thúc, đưa đẩy nên tôi, thằng đàn ông lạc bầy, chưa bao giờ được
hưởng cái hạnh phúc giản dị mà xa vời, như anh: dưỡng già ở quê
làng Việt Nam, giữa gia đình, con cháu quây quần ấm cúng! Ở bên này, cứ
chiều chiều, tôi cũng hay dắt đứa cháu ngoại lên 3, lững thững dạo
vài vòng quanh sân vận động trường Đại
Học Tổng hợp Quốc gia Cuban, nơi tôi và anh cùng gắn bó 5 năm có
lẻ! Chợt nhìn lên trời cao, một đám mây trắng như bông gạo Cầu Sông
quê mình, đang lang lang vô định, lại nhớ đến Nguyễn Du - Truyện Kiều:
Bốn phương mây trắng một màu,
Trông vời cố quốc, biết đâu là
nhà?!
Dặm nghìn nuớc thẳm, non xa,
Biết đâu thân phận con ra thế này!
Lòng thoắt dâng mãi lên nỗi buồn ly
hương vô hạn!... Những chiều như thế này, chắc anh – chị đang nắm tay
nhau, dặt dìu thả bộ thể dục hóng mát quanh bờ ao Sen, ao Đình mới
được kè đá, lát đường, hay qua dốc
Cầu Sông, xuống dốc Ông Bàn, xuôi nữa xuống Viện Chăn nuôi, khu công nghiệp Nam Thăng long… cho thật thoáng đãng? Còn tôi, tôi phải nỗ
lực rất nhiều để sớm nhất là mùa hè năm tới sẽ tổ chức được một
chuyến hành hương về nước cùng cái gia đình bé nhỏ của mình, với Rita
(vợ tôi, chắc anh còn nhớ?) hai con và 2 cháu nội? Để bà ấy và nhất
là lũ con cháu mục sở thị lần thứ hai lâu lâu hơn, thổ ngơi, phong
vị, cảnh quan Việt Nam, Hà Nội, Từ Liêm, làng Trèm, quê chồng, quê
cha, quê ông nội chúng như thế nào… Không biết ước mơ cháy bỏng ấy có
thành được sự thật không? vì công việc của chúng tôi bên này khó khăn
lắm, kiếm được mấy ngàn USD đâu có dễ!...
Thôi, hãy tạm biết thế! Giờ tôi
chỉ muốn anh chia sẻ cùng tôi tấm lòng kẻ tha hương cầu thực khốn
khổ, người bạn đồng môn cũ từng mấy năm ăn chung một nồi, ở chung 1
phòng: viết tất cả những gì anh biết, anh nhớ, anh cảm về cái bể nước làng Trèm ta ngày xưa và bây giờ. Để ngõ hầu tôi có thể nói
lại cho Rita – maia giena (vợ tôi); (anh còn nhớ cô gái Nga tóc vàng,
mũi hếch rất hiền, ngoan ấy chứ?), và lũ con cháu nửa Nga nửa Việt
của tôi, có thể hình dung cụ thể. Nhất là cháu út Ngô Lan -
Masa nhí nhảnh, nhiều lần cứ căn vặn ông nội: - Bể là cái gì? là biển nước nho nhỏ hả ông? - Tại sao
bể nước lại có thể xây ở trong
sân, ngay bên cạnh bếp, cạnh đầu nhà? - Người Việt Nam mình (ôi! chữ mình tự nhiên buột ra từ cái miệng
xinh xinh của đứa trẻ nít ruột thịt làm tôi cảm động đến rơi nước
mắt!) không thích dùng nước máy bằng nước bể, hả ông?... Con bé thật
lòng ngây thơ muốn tìm hiểu quê hương, Tổ quốc của ông nội, cũng là
của bố mẹ nó, của nó, lạ kỳ thay, lại bắt đầu từ chuyện cái bể nước gia đình làng quê tận xứ
Việt Nam rất đỗi xa vời!?
Anh giúp tôi nghe!...
Thân ái! Ngô Hoan
(Hết
trích)
Trèm, Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam,
ngày 25 – 4 – 2013
Chú
Hoan thân nhớ!
… Tôi
rất cảm thông và hoàn toàn chia sẻ với nỗi buồn nhớ đất nước, quê
hương của chú. Không ai muốn sống xa nhà, xa quê, xa nước, xa cha mẹ,
ông bà, và linh hồn tổ tiên hàng vạn km như vậy. Chỉ vì gặp thời thế thế thời phải thế!
Mà thôi! Hơn ba mươi năm trước, làm cái anh sinh viên du học trên đất Nga
giá lạnh, tôi cũng đã bao đêm, bao ngày khắc khoải một niềm suy tư vọng
tưởng cố hương như chú. Ấy thế mà nhiều năm sau lại không ít lần mơ
được trở lại ngắm dòng sông Cuban trong xanh, viếng Đài Liệt sỹ vô
danh ngay cạnh trường mình …nhưng cũng đành gặp trong mộng… đó thôi!
Cho nên… nếu cứ băn khoăn tự hành mình hết nhẽ, thì cuối cùng, đành
lại đổ cho Trơì, cho Con Tạo vô
tình xoay vần xuôi ngược vậy! Rất mong chúng mình gặp lại nhau mùa
phượng sang năm. Trong thời gian một
thu xa dằng dặc bằng nửa ngày dài ghê ấy, tôi sẽ an ủi chú bằng
cách cố gắng trả lời những câu hỏi tỉ mỉ của chú và vợ, con, cháu
chú về những cạnh khía nhỏ, to khác nhau của văn hóa quê Trèm ta, mà
vì xa nước quá lâu, có thể bụi thời gian đã xóa mờ đi ít nhiều trong
tâm tưởng, ký ức của người tha hương…
Bể
nước làng Việt nói chung, làng Trèm ta nói riêng đã được dự vào
sinh hoạt hằng ngày của mỗi gia đình nhân dân tự rất lâu đời. Từ
thường thường bậc trung trở lên, mỗi nhà có chí ít 1 chiếc; nhà khá
giả, phong lưu hơn có khi có tới 2 – 3 chiếc lớn. Bể chủ yếu chứa
nước sạch nhà dùng quanh năm. Tôi
chưa được tường vì sao cái hộp chữ nhật xây gạch trát vôi – mật mía,
hay xi măng tốt; cái nổi, cái nửa chìm nửa nổi, cái lại chìm hẳn
dưới nền nhà (gọi là bể chìm) ấy, lại gọi là bể? Vùng Trạch Mỹ Lộc, huyện Tùng Thiện, Sơn Tây cũ gọi
là biển?! Dù bể hay biển nhưng đều là
một khối hộp chữ nhật (cũng có khi gặp khối lập phương, hay khối
bầu dục… nhưng rất hiếm), thể tích có thể di động từ 1 – 5 - 6m3;
nghĩa là dung tích chứa từ 1000 – 5000 – 6000 lít nước. Bể trung bình hoảng từ 2 – 3m3. Nhà nào chưa xây được bể lớn thì xây tạm bể con từ 0, 5 – dưới 1m3 hoặc đành
chứa nước mưa hứng từ ngọn cây cau, từ mái ngói qua hệ thống máng
tôn hoặc máng cau, thậm chí máng bẹ chuối, đổ vào các chum, vại, cong,
ang sành, sứ… Truyền thống cúng lễ, ăn, uống bằng nước không rễ trời ban trong sạch, tinh khiết múc từ bể, đã
thành máu thịt của người nông dân Việt.
Đọc thiên truyện ngắn Những chiếc ấm đất (Vang bóng một
thời; Nguyễn Tuân), tôi vô
cùng khâm phục cá tính và văn tài cụ Nguyễn, nhưng càng ngày càng
chưa hiểu được cái thú uống ước trà Tàu chỉ pha bằng nước giếng
chùa Đồi Mai của cụ Sáu?! Cụ già ấy cầu kỳ đến mức sai người nhà,
giữa trưa nắng gắt, cất công lên tận giếng
chùa làng xin sư cụ nước giếng chùa để pha trà, tiếp khách quý.
Nếu hai nhân vật cụ Sáu và sư cụ nhà chùa là có thật và có thể
phục sinh, thì tôi, dù tài hèn sức mọn, cũng dám đánh đường đến
tận nơi hai cụ đang thưởng trà song
ẩm, liều xin một chén hạt mít,
để xem hương vị của trà Thiết Quan Âm pha nước giếng Đồi Mai ra sao?!
Nhưng càng ngẫm ngợi, tôi càng ngờ rằng, chẳng qua đó cũng chỉ là
kết quả sự tưởng tượng lãng mạn dồi dào của ông vua tùy bút Việt mà thôi! Còn riêng với tôi, và với không
ít bạn bè quen, đã từng uống trà pha bằng nước giếng Ngõ Đồng trong
nhất làng hay nước giếng khoan sâu, hay nước máy mới, cũ, nước sông
Hồng, sông Nhuệ đánh phèn… Thấy tất cả đều nhạt nhẽo, vô duyên lạ,
so với trà pha nước mưa cũ chứa trong bể lưu niên. Như là mùi thơm thêm
dậy ngát hơn, vị trà đậm hơn, nước trà vàng sánh hơn. Nhắp nhắp, sịt
soạt, nuốt xuống cổ họng rồi mà mùi thơm, vị đắng chát, ngòn ngọt
cứ tê tê mãi nơi đầu lưỡi. Sáng mồng một Tết, dậy sớm sửa lễ cúng
ông bà tổ tiên. Trong khi anh con cả lễ mễ bưng mâm cơm cúng đặt lên
chiếc mâm bồng đen đại giữa
giường thờ, thì tôi rẽ ràng ra bể, khỏa gáo, múc lên lưng lưng gáo
nước trong văn vắt, lóng lánh dưới ánh ban mai, nhẹ nhàng rót vào
bát nước cúng đã được lau chùi sạch sẽ, trịnh trọng đặt vào lòng đài gỗ trên ban thờ, đối xứng với đài
bên kia bày đĩa trầu mẹ tôi têm sẵn từ tối qua. Khoan thai thắp một
tuần hương ngát, bỏ thêm trầm vào đỉnh đồng, thắp tiếp 4 ngọn nến
hồng lung linh. Châm tửu. Mở tủ, lấy bản văn khấn đặt trước kỷ.
Lễ cúng sáng mồng một Tết Nguyên đán nhà tôi đã có thể chính thức
bắt đầu.
Nước mưa trong bể trữ được lâu,
dùng để cả gia đình nấu cơm, nấu canh, luộc rau, ăn uống và cả tắm
giặt nữa (trong mùa mưa và với những nhà có bể lớn). Không gì khoái
thú, mát mẻ bằng, trưa nắng to đi học về, mồ hôi mồ kê đầm lưng áo,
quăng vội cặp sách lên bàn, bỏ ngoài tai cả lời mẹ dặn đi dặn lại: -
Con đừng có uống nước lã. Độc lắm
đấy! Chạy ào ra bể, vục chiếc gáo
dừa múc đầy 1 gáo, ngửa cổ uống ừng ực. Nước trôi đến đâu, ngon
lành, mát bổ đến đó. Tỉnh cả người! Đi nhanh vào giường, lăn kềnh ra
với cái quạt nan phành phạch: - Đã! Hoặc những chiều oi ả, sau buổi
chăn bò tận đồng Cửa Trẹm, ra
luôn bể nước đầu hiên, vớ chiếc thùng kéo bên cạnh giội ào ào một
hồi. Tắm bể nước ngọt nhà với riêng tôi, thú chẳng kém gì sau này được
tắm dưới vòi hoa sen trong buồng tắm nằm, buồng tắm đứng, hay đùa
nghịch dưới làn nước bể bơi Quảng Bá, Nghĩa Tân, vùng vẫy trong nước
bể mặn Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, oằn oài nô giỡn cùng bánh phao cao
su với sóng bể lười công viên Nước Nhật Tân, Tây Hồ.. .
Nhà tôi, từ xưa các cụ đã để
lại 2 cái bể xây. Bể lớn dung tích cỡ 3m3, xây nổi sát tường rào trước sân nhà. Hai đầu bể, cao cao hai
trụ vuông. Bể không có mái cuốn, mái bằng chi cả. Trong khi bể nước một
số gia đình giàu có hơn như nhà cụ He giữa xóm, cụ Bi đầu xóm, cụ
Ca, xóm Đông… đều được cuốn vòm mái
bằng gạch bìa nhẹ, đẹp và thoáng.
Bể nhà cụ Cai, xóm Bạc, cụ Hộ xóm Đình được xây như 1 gian nhà hạng
trung. Gọi là bể gian – nhà – bể.
1 mái có hoành, dui, mè gỗ, lợp ngói ta. Lòng bể sâu chừng hơn 2m, dài cỡ 4, 5 m. Bể chia làm 2 ngăn. Dùng đến khi nước gần vơi
quá 2/3 bể thì múc hết nước từ ngăn này sang ngăn kia rồi thau rửa
lần lượt từng ngăn bể. Bể nào cũng phải khoét rốn, đặt một chiếc bát loa hoặc đĩa sâu lòng vào 1 góc
đáy bể, trát xoa vữa vôi tam hợp
cho liền khít (chỗ đáy bể lõm hơn để dễ múc, vét rửa nước cặn mỗi
lần thau bể) gọi là rốn bể. Bể
kiểu ấy rất thoáng. Những sáng, trưa chiều, có dịp ngó vào mặt
nước trong bể, thấy hoa nắng lấp lóa, lỗ chỗ đung đưa, xao động theo
tay gáo của ai đang khỏa vội. Bên cạnh bể nước, thường trồng hai cây
cau cao. Mùa hoa thoang thoảng. Hoặc gây giàn trầu không: lá tốt, xanh trùm bể nước (Hoa chanh- Nguyễn Bao).
Nếu mái bể nhà cụ Du lợp 4 tấm
bê tông đặt nghiêng chéo thì mặt bể nhà cụ Đang, láng giềng lại đổ
bê tông phẳng. Để 1 ô vuông mỗi chiều 0, 40m làm cửa múc nước. Đến
giờ, thi thoảng từ cửa số nhà thờ hướng tây nhìn ra, tôi vẫn ngỡ
thấy cụ đang khỏa trần một nửa, trải chiếu, nằm vắt chân chữ ngũ
trên mặt bể, quạt mo cau phe phẩy, sang sảng ngâm bài thất ngôn tứ
tuyệt mà Trần Nguyên Tử vừa ngẫu hứng.
Mặt bể nhà tôi che bằng tấm phên
nứa trên những hoành tre. Lâu
ngày dầu dãi nắng mưa, tre, nứa ải mục, gãy, mảnh, rụng cả vào
trong nước. Bể che không còn được kín. Sau những đêm mưa to, có cả vài
chú nhái, ếch hoặc chẫu chàng lang thang chơi đêm mưa, tò mò nhảy
vào, bơi bì bõm. Lại phải ra sức vợt, quẳng đi! Hai, ba năm lại phải
thay phên bể! Bố tôi mua tre, nứa dại về. Ông tôi tỉ mẩn ngồi chẻ, đan
phên, lắp ghép. Cũng hơi lịch kịch. Nhưng với mức sống của gia đình
tôi những năm ấy, cuốn bể hay lát trần bể cũng khó mà thực hiện
được khi bữa ăn hằng ngày chỉ toàn cơm độn ngô mảnh đỏ khé hay khoai
lang khô xám sì, rau muống luộc chấm tương với vại cà bát, hay vại
dưa cải muối. Nhiều năm sau, bể rò. Hàn, vá mãi không được, đành đập
bỏ, tôn cao đất làm vườn trồng hồng xiêm, trứng gà. Không còn bể lớn. Bể con cũng hỏng! Đành
phải chứa nước mưa trong chum sành, trong thùng phuy sắt, trong vại đại,
thùng, xô nhựa... Mỗi trận mưa rào, bố tôi, rồi mấy anh em tôi cứ
phải thay nhau hứng, đón từng thùng nước mưa từ đầu máng, dưới mái
nhà, đổ đầy từng đồ dùng đựng nước tạm bợ ấy…
Mãi đến năm 1992, nhà tôi mới có
đủ điều kiện kinh tế quyết tâm xây bể chứa nước mưa mới. Chú thợ xây
khéo tay Ba Xu (cái tên cúng cơm rất buồn cười?!), lần đầu nhận việc
này, hết sức cẩn thận trong từng khâu: hướng dẫn bố con tôi đào thùng
đấu, chọn gạch lát đáy thật già, gạch xây thành thật đều, nung vừa
lửa, xây xi măng cát vàng + cát đen + vôi (tứ hợp) trát xi măng, đánh da màu, rồi cuốn bể. Hai bố con
phải ra tận thôn Hồng mua phên đan sẵn, khiêng về, uốn cong làm khuôn.
Cẩn trọng đến từng công đoạn nhỏ
một. Để 2 ô cửa vuông lắp kính đón ánh sáng trời. Trước khi hoàn
tất, tôi run run, tỉ mẩn tự tay khắc chìm hàng con số 1992 (Canh Thìn) mà lòng thoáng rạo
rực. Thế đấy! Ước mơ cả đời của ông bà tôi, bố mẹ tôi, cả đời vẫn
là mơ ước! Phải đến tận quá nửa đời vợ chồng tôi, mới thực hiện
được! Chính vì cẩn trọng trong quá trình xây dựng như thế cho nên
chất lượng bể rất bền. Sau hơn 20 năm liên tục sử dụng, đến nay, bể
vẫn orêdin!
Mặt nước bể dưới ánh sáng trời,
tự nhiên thành một mặt gương trong lớn. Mấy cô em họ láng giềng mỗi
bận sang nhà thờ lễ Tổ, lại kín đáo, sẽ sàng ra bể, ghé mặt qua
cửa bể, soi đi vuốt lại cái khăn, nắm lại vành tóc vấn, sửa lại
nét môi cắn chỉ ăn trầu, trước khi bước lên hè, vào trước ban thờ,
thắp hương khấn vái. Bể cuốn vòm tự nó tạo thành một hộp cộng âm rất tốt. Hồi nhỏ tôi,
Ngà Lê, Phúc Lê, Ngọc Hưng, 4 đứa rất thích thò cổ vào trong cửa bể để
luyện thanh, tập hát. Tự hát, tự nghe giọng mình được lòng bể sâu
rộng khuếch đại vang vang, thấy cũng đáng mặt danh ca làng lắm! Đến khi nhà đã có bể riêng để tha hồ tự
luyện thanh thì đã quá tuổi nhi bất
hoặc (40) rồi! Hai đứa con trai tôi cũng thích hát nhưng không cần
luyện giọng với bể nước nữa vì nhà đã sắm đủ ămpili, dàn loa nén, mích,
đàn, tivi 32 ins, để ai thích caraôkê
thì ca; tự hát, tự đàn thì mặc thích! Nhưng cái thú hát với bể,
trong bể thì chẳng bao giờ có thể quên được!
Những đêm mưa rào xối xả mùa hạ,
nằm nghiêng trong màn, vừa đọc sách vừa lắng tiếng dòng nước mưa từ
máng tôn chảy ồ ồ, ào ào vào lòng bể nước cứ đầy dần lên, dần
lên, lòng tự nhiên thấy yên ắng, thanh thản lạ! Sáng sau, mưa tạnh,
tỉnh dậy, ra coi thì nước đã đầy ứ, chàn chạt cả ra ngoài sân giếng
khơi bên cạnh. Con cá rô cụ thả bể cho ăn bọ gậy từ mấy năm nay bỗng
cao hứng nhảy vọt ra khỏi bể, cong mình, giương vây thủ thế ngoài sân,
lựa mãi mới bắt lại được. Lại thả tõm vào bể. Rô cụ uốn mình,
vẫy đuôi, lặn xuống đáy sâu, nhưng xem ra có vẻ ngạc nhiên: chuyến rong chơi tự
do tại sao lại có thể ngắn ngủi đến vậy?!
Hơn chục năm sau, giếng khơi đầu
hồi cạnh bể được lấp, thay bằng giếng khoan. Tôi trồng thế vào đó
một cây chanh yên chiết giống tốt. Năm sau đã nở hoa trắng ngần. Cánh
rụng, bay cả vào mặt nước bể đầy cả trăm vệt trắng li ti. Vài năm
sau nữa, giếng khoan bơm tay lại được thay bằng giếng khoan sâu bơm điện,
phao tự động, bơm nước lên tầng 4
– 5 dễ dàng; lại bổ trợ bằng hệ
thống nước máy ống, rôminê bắc
vào sát bể, ròng ra khắp vườn sau để tưới cây, rau, hoa. Nhưng bể cuốn nhà tôi thì vẫn không suy
suyển, vẫn yên vị. Mùa đông nước vơi, mùa mưa nước lại đầy. Bể cần
mẫn, tự nguyện trung thành phục vụ gia đình tôi, đến năm nay, đã hơn
hai chục năm rồi! Mặt ngoài vòm cuốn và thành bể đã xám mốc rêu
phong, nhưng mặt trong vẫn xanh biếc, nhẵn lì, mịn khít. Cây lộc vừng
trồng đầu bể năm nào nay cũng đã thành cổ thụ, tỏa bóng mát cả
cái sân gạch đầu hồi, che rợp làm cho bể nước mát – ấm quanh năm.
Bể nước gia đình, bể nước làng
Trèm, từ trong bản chất đời sống văn hóa - lịch sử của nó, không chỉ
gắn bó thiết thực với bao thế hệ cư dân làng Trèm mà còn xứng đáng
là một người bạn thân, một ân nhân của mỗi gia đình, mỗi người chúng
ta trong cuộc sống thường nhật cũng như trong các dịp lễ tết, hội
hè.
Bể
Trèm mãi mãi xứng đáng và vinh dự trở thành một mảnh hồn Trèm, một mảnh
hồn quê Việt Nam…
Chuyện bể nước, bể Trèm xưa và nay, có thể kể Hoan nghe nhiều
nữa. Chẳng hạn lễ cúng giao thừa trên mặt bể, chuyện thau bể, hàn
bể rịa, chữa bể rò, bể lớn, bể tranh tường thả cá, nuôi chơi cá
cảnh, xây bể non bộ… cả chuyện đổ
bể, bể đổ…
Nhưng xin hãy tạm dừng. Thư bất
tận ngôn!
Cho tôi gửi lời thăm sức khỏe đến
Rita và các cháu.
Hẹn thư sau.
ĐV./.
15 – 5 - 2013
Bài này ngắn nhưng hay thật ! Rất thích Bể Trèm !
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã ghé trang, đọc và chia sẻ.
XóaChúc bạn có những niềm vui khi đọc những bài trên trang Blog này!
Chủ trang
VNNB