Nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều
LTS:
Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 12 tháng 3 năm 1957 tại Làng Chùa,
huyện Ứng Hòa Hà Nội. Tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Trường đại học Lahabala
Cu Ba năm 1989. Với nỗ lực vượt bậc và tài năng xuất sắc của mình,
Nguyễn Quang Thiều đã xác lập một giọng điệu thơ mới trong thơ Việt
Nam.
Là nhà thơ hiện đại - một thi sĩ nổi bật trong làng thơ đương
đại, Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 10 tập thơ. Nguyễn Quang Thiều cũng
là là Nhà văn ,Nhà báo ông đã xuất bản 15 tập truyện và tiểu
thuyết, 3 cuốn sách dịch. Ngoài ra ông còn viết 500 bài báo, bút
ký, ghi chép, tiểu luận và kịch bản sân khấu. Tác phẩm của Nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều được bạn đọc say mê ngưỡng mộ. Nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn
của Nguyễn Quang Thiều được dựng thành phim phát sóng trên nhiều kênh
truyền hình Việt Nam như: Hai người đàn bà xóm Trại, Mùa hoa cải bên
sông, Chuyện làng Nhô… Nguyễn Quang Thiều và Trung tướng, nhà văn Hữu
Ước sáng lập báo An ninh thế giới cuối tuần và Cảnh sát toàn cầu - hai tờ
báo phổ biến ở VN.
Nguyễn Quang Thiều một nhà thơ tiên phong, một cây bút văn xuôi
đầy cảm xúc và giàu tính nhân văn. Thơ và văn xuôi của Nguyễn Quang
Thiều đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới: Hoa Kỳ,
Nga, Thụy Điển, Anh, Thái Lan, Úc, Pháp, Na Uy, Hàn Quốc...
Hiện Nguyễn Quang Thiều là Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Phó
tổng thư ký thứ nhất Hội nhà văn Á Phi. Tân Văn trân trọng giới thiệu
bài viết của Nhà giáo ưu tú Hoàng Trung Hiếu Hội viên Hội văn học nghệ
thuật Nam
Định về thơ Nguyễn Quang Thiều:
THƠ NGUYÊN QUANG THIỀU
TIẾNG CA LỊCH SỬ CỦA THỜI ĐẠI
Trải qua hàng nghìn
năm, nghệ thuật của nhân loại luôn luôn tìm kiếm phát hiện và khám phá
những cái mới để Tồn
tại hay không tồn tại? Phép
tắc cơ bản của nghệ thuật là sáng tạo và không ngừng sáng tạo. Nguyễn Quang
Thiều đã và đang làm điều đó nhằm tạo lập phong cách cá nhân độc đáo
để thế giới thi ca của mình đi vào lòng người thời đại.
Vấn đề đặt ra tại sao lại có
“sự mất ngủ của Lửa”
(Nhà xuất bản lao động – 1992)? Lửa thơ của Nguyễn Quang Thiều mất ngủ
vì bóng tối (bóng tối chứ không phải bóng đêm) còn quanh quất nơi này nơi
kia, bịp mắt người này người nọ. Giá lạnh vẫn còn. Thậm chí còn đóng băng
cố hữu. Lửa phải thức để xua tan bóng tối để bớt đi lạnh giá của cuộc sống
làm ấm lòng người. Hơn ai hết Nguyễn Quang Thiều hiểu rất rõ bản chất của
Lửa: tỏa sáng và thiêu đốt. Sự
mất ngủ của Lửa vừa
để tỏa sáng vừa để thiêu đốt. Lửa của lòng anh, lửa của thơ anh mất ngủ
thật cao đẹp biết bao. Nguyễn Quang Thiều phải bao đêm trăn trở, thao thức,
day dứt mới xuất thần được tuyên ngôn Sự
mất ngủ của lửa làm
xúc động lòng người, làm sáng trí thi ca. Những lúc lửa vùi dưới tro nóng,
lửa ủ trong vỏ trấu là lửa ngủ. Vào những năm giữa của thế kỷ 20 người bà
đã dạy cháu nhóm lửa
lên (Bếp lửa của Bằng Việt).
Đường dài đi tới thơ của
Nguyễn Quang Thiều hôm nay là cảm xúc và trí tuệ đã cháy lên trong
tâm thức của anh: không
là ma quỷ, không là thánh thần/ cháy ngọn lửa rực rỡ nhưng không giấu đất
đá và củi rác phía dưới/ cõng trên lưng tảng đá khổng lồ của sự đầy đọa để
được kêu vang tự do/ đã chết quá nhiều cái chết trong bóng tối mới chạm vào
cơn mơ sự sống/là cái cây trơ trụi, đen đúa…/là mẩu quặng của thời đại
bị những thợ kim hoàn khước từ. Nguyễn Quang Thiều đã nâng
tiếng nói của Lửa, của đá, của cây, của quặng thành tiếng nói của người.
Tiếng lòng của Nguyễn Quang Thiều là do cảnh vật khơi gợi, do anh nhận biết
và khải phát để cho người đọc, minh tâm kiến tính mà lắng nghe tiếng dội
nơi sâu thẳm của lòng mình: Tôi
hát bài ca về cố hương tôi/ Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó/ Nó không tiêu
tan/ Nó thành con giun đất/Bò âm thầm dưới vại nước bờ ao/ Bò quằn quại qua
khu mồ dòng họ/ bò qua tha ma người làng chết đói/ Đất đùn lên máu chảy
ròng ròng. Sự mờ
tỏ nửa có nửa không, nửa hư nửa thực của câu thơ là dụng ý nghệ thuật tạo
ra cái bề sâu, cái đường biên rộng kích thích trí tò mò khám phá của người
đọc:Chúng ta thường chăm sóc những ngôi mộ/ bằng niềm sợ hãi và tiếc
thương/ Nhưng ít người chúng ta nhìn thấy/ Cỗ xe tang lộng lẫy/ trong tiếng
trống tưng bừng/ làm thần chết cũng hết phiền muộn/ và tên tuổi chúng ta
được khắc/ trên phiến đá lặng im /lấp lánh và uy nghiêm/ như tên các vị
thánh. Anh tự
thức tỉnh mình để thức tỉnh người. Ngôi mộ thơ, xe tang thơ? Đó là những
bức xúc đầy cảm quan bi kịch. Thơ Nguyễn Quang Thiều là sự kết hợp giữa
hoài nghi triết học với thi ca, giữa tư tưởng với nghệ thuật để cả tốt và
xấu, thiện và ác, cao thượng và thấp hèn đều nhìn thấy hình thù của mình,
nghe thấy giọng điệu của mình và những ham muốn của mình: Dưới ánh sáng những
vầng mây mùa đông/ Bên những ngôi nhà cao tầng vừa thở dốc vừa chống gối
đứng dậy/ Bên những quán đang đổ rượu mê man vào một miền khô trụi/ Những
đám cỏ vô tình được cứu sống dạt vào nhau/ Tôi mang cơn mơ nham nhở của màu
xanh/ Suối tuổi thơ không hay có từng ngày bị săn đuổi/ Những con dế bật
càng xa, xa mãi/ Mưa giêng hai góa bụa khóc sang hè/ Tôi đã qua cái chết
của màu xanh với 30 năm vừa rũ chiếu/ Vừa khóc/ Tôi đi qua nhưng kẻ sát
nhân đang bắn vào hơi thở/ không nhìn thấy nhà tù nào mà mỗi ngày tôi mất
đi một ngọn cỏ/ Không nghe tiếng súng nào mà ngực cỏ vỡ đêm đêm/
Chiều nay trên đại lộ bê tông xuyên vào thế giới cuối cùng của cỏ/ Một con
ngựa trắng đi cúi mặt, rũ bờm. Độc
những câu thơ não lòng như tiếng gọi hồn của cỏ.
Thơ Nguyễn Quang Thiều huyền
hảo như âm dương, có khả năng dịch hóa, biến thông rất uyển chuyển: Cỗ xe tang trôi mãi vào cơn
mê - Những vòm cây tự xé rách lưỡi mình- Trong cơn ngứa ăn nhầm ánh sáng-
Những đền chùa gục ngã/ Trước những pho kinh phản bội bồ đề. Tôi chiêm ngưỡng thơ của
Nguyễn Quang Thiều như chiêm ngưỡng một tảng băng trôi, khao khát ở phần
chìm của nó. Không gian thơ của Nguyễn Quang Thiều rất rộng, bao la cả
không gian ba chiều: Bình viễn, cao viễn, thâm viễn. Cả phần hiển lộ và
phần khuất lấp. Quyền uy và năng lực bao quát của thơ anh là rất lớn cả
Thiên – Địa – Nhân. Trong tam tài Thiên – Địa – Nhân thì anh đã nhập đồng
vào Những vầng mây
không mang họ nước/ Chở lịch sử của chúng trôi nham nhở dọc chân trời, nhập đồng vào làng chùa vào dòng
sông đáy vào người đàn bà gánh nước. Ngôn ngữ của nhân loại thì mới có khả
năng biểu đạt những gì bằng trực giác, có thể định hình được, cân đong đo
đếm được như lớn nhỏ, trắng đen, mềm cứng, nóng lạnh, cao thấp, sang hèn,
thiện ác. Vậy mà Nguyễn Quang Thiều có những câu thơ cực kỳ vi diệu khó có
thể cảm được, cũng giống như ta đang sống và làm việc trên trái đất. Trái
đất vẫn đang quay mà ta đâu có biết? Ánh
sáng trắng đang tìm giấy khai sinh lần thứ nhất của mình và thức dậy không quờ tay tìm
đèn và không cả ho
khan/ Thức dậy và rút
những chân hương ra khỏi ngực mình. Và
đây nữaĐợi bài ca sinh ra từ những hạt cơm vương trong chân cỏ dại/
Từ quả trứng buồn vừa bóc vỏ thời gian. Lửa của Nguyễn Quang Thiều
hãy cứ cháy lên để cho thơ sáng. Thơ anh như bó đuốc đình liệu soi rõ mặt
cả người ngay và kẻ gian, người thiện và kẻ ác, thiêu đốt những ba- ri - e
cản đường lì lợm, hóa giải những vòng kim cô để bớt phần nhức nhối. Cứ như
thế, thơ anh thầm thĩ với người và thao thức với thời gian: Tôi hát bài ca về cố hương
tôi/ Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó/ Nó không tiêu tan/ Nó thành con giun
đất/ Bò âm thầm dưới vại nước bờ ao/ Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ/ Bò
qua bãi tha ma người làng chết đói/ Đất đùn lên máu chảy ròng ròng. Một trong những khó khăn
nhất mà cũng cao đẹp nhất của đạo làm người là tự biết mình và tự thắng
mình. Muốn chiến thắng trong cuộc đời phải luôn thắng được mình.
Người có những năng lực để điều hành, chế ngự và biến thông xã hội không ai
khác là người biết chế ngự mình. Tôi cho rằng Sự mất ngủ của lửa,
không chỉ là tên riêng của đứa con tinh thần của anh mà nhà xuất bản Lao
động đã cấp giấy khai sinh cho nó năm 1992 mà còn là tên chung , gương mặt
chung của cả những đứa con sau: Người
đàn bà gánh nước sông (1995), Nhịp điệu châu thổ mới (1997), Bài ca những
con chim đêm (1999), Cây ánh sáng (2009). Tâm của Nguyễn Quang
Thiều có công năng nhìn là thấy, nghe là rõ, nghĩ là sáng. Vì thế Lửa của
thơ anh cứ sáng mãi lên.
Đọc thơ Nguyễn Quang Thiều
tôi tự hỏi: Tại sao hệ thống biểu tượng trong thơ Nguyễn Quang Thiều lại
nói nhiều đến Lửa,
nói nhiều đến cánh
đồng, dòng sông, người đàn bà? Lửa là sáng là ấm, là bốc lên nhưng
cũng là thiêu đốt. Lửa là dươngứng với lễ kỉ cương mực thước. Lửa
đem lại cuộc sống văn minh để con người thoát khỏi cầm thú. Nước là mát là
lạnh là thấm sâu là vòng vo uyển chuyển là dập tắt là cuốn trôi .Nước là
(âm), thâu nhận tất cả. Vật bẩn nào vương vào trong nước đều được nước làm
sạch hơn. Dòng sông,
nước khi lên khi xuống, lúc ra bể lúc về nguồn, chở nặng phù sa nhưng chỉ
đọng ở bên bồi, không rơi vào bên lở. Nước chảy đi chỉ dòng sông là ở lại.Nước ứng với trí. Đạo của trời
đất cũng lưu hành như nước chảy, chỗ cạn thì bù vào, chỗ cả thì lưu thông.
Nói đến cánh đồng,
nói đến châu thổ là nói đến đất. Đất bao dung muôn vật. Nhờ vào đất mà muôn
vật được hóa sinh. Đất lưu giữ, ấp ủ vì thế mà
đất ứng với chữ tín (lòng tin). Đất cứ lặng thầm dâng
hiến. Thơ anh đã tìm được chỗ đứng cao nhưng lại gần kề để tri âm với phụ
nữ - đẹp và cuốn hút nhất trần gian, nhưng lại phải hứng chịu quá nhiều khổ
đau, phận bạc. Muốn bù đắp phải nhìn thấy những thiếu hụt. Muốn hạnh phúc
thì phải nhận rõ khổ đau. Vẻ đẹp của tạo hóa thường ẩn khuất ở nơi kín đáo,
cao sâu. Nghệ thuật thi ca cũng bắt chước tạo hóa lưu giữ vẻ đẹp ở ngôn từ
nhiều nghiệm, ảo mờ chỉ cảm thấy chứ khó nhìn thấy. Nguyễn Quang Thiều nói
về bầu vú của đàn bà con gái. Vì bầu vú là vẻ đẹp hoàn bảo, là bầu
ngọc là suối thiêng là sông là biển, là sách vở, là tri thức vừa dạy bảo
vừa thống trị con người. Theo thiểu nghĩ của tôi thì người đàn bà giống như
nước mềm mại và uyển chuyển nhưng sức mạnh thì tiềm tàngnước chảy đá
mòn. Tôi nghĩ rằng Nguyễn Quang Thiều hiểu rất sâu nước ứng với trí.Chả thế mà anh
khao khát trở về với dòng sông quê. Những lúc xa quê anh ao ước dòng sông
nâng lên ngang trời để anh được nhìn thấy. Dòng sông quê anh giống như
người đàn bà nhuần thấm, năng nổ, bền bỉ vì sự sống của muôn loài. Anh đã
trao gửi nhận thức đó của mình vào dòng sông và người đàn bà gánh nước.
Hỏi nào mà con nhện già đã
lao ra vồ lấy ý nghĩ của
anh? Nhiều cây bút đã tri âm thơ Nguyễn Quang Thiều. Mỗi người một vẻ mười
phần cũng đã vẹn được 7,8. Tôi tâm đắc nhất, trân trọng nhất là lời bình
xét của Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Đăng Điệp: Xét về bản chất, thơ Nguyễn
Quang Thiều là tiếng nói hướng thượng. Nhưng đó không phải là hướng thượng
chính trị (thông thường) mà
hướng thượng tới những giá trị nhân sinh cao cả, nhữngvẻ đẹp kì diệu của
cuộc sống, của sức mạnh nghệ thuật. Đó mới là thứ chính trị của thơ ca
hướng tới... Nó cần đến sự sám hối và cứu
rỗi chân thành.
Thơ Nguyễn Quang Thiều như
con cá chép bơi ở dòng sông châu thổ. Ai bảo là thức ăn thì xắt khúc để mà
kho. Ai bảo là nguồn lợi thì thả vào ao cho nó sinh sổi nảy nở. Ai bảo là
thơ thì cho nó nhả ngọc để cất cánh bay lên mà hóa Rồng.
H.T.H
(Nguồn Tân văn số 3 - NXB Hội nhà văn tháng 3-2013)
|
có mộthội nghị tầm cỡ như vậy là có tin hiệu vui.Anh Vũ Nho đã Tóm lươc, thuât lai một phân để ai quan tâm biết đoc, ngẫm nghĩ cũng cần thiết...Tiêc là chưa thấy cái mới..,có vẻ vẫn như như cũ, vẫn những cây bút ây...già hơn trẻ.đặc biẹt hấp dẫnlà bức hình phong cảnh rất đẹp.Ấn tương.
Trả lờiXóaCám ơn nhận xét và sẻ chia của Kim Thanh!
XóaChất lượng Lí luận phê bình thể hiện ở sản phẩm sách và báo chứ không mấy phụ thuộc vào Hội nghị!