Kỷ niệm 88 năm Ngày báo chí
Cách mạng Việt Nam
( 21 / 6 / 1925 - 21 / 6 /
2013 )
GỬI LẠI VỚI ĐỜI
TRẦN MAI HẠNH
Thật ngẫu nhiên, bức ảnh đầu
tiên tôi có mặt được chụp từ 45 năm trước, lại là bức ảnh hiếm hoi duy nhất tập
hợp đông đủ các nhà báo có mặt tại chiến trường Quảng Đà lúc đó, gồm các phóng
viên của Việt Nam thông tấn xã, báo Nhân Dân, báo Giải phóng, báo Cờ Giải phóng
Quảng Đà và phóng viên nhiếp ảnh Ban Tuyên huấn tỉnh uỷ Quảng Đà. Bức ảnh được
chụp chiều ngày 14/7/1968 tại bộ phận tiền phương Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Quảng
Đà. Tám nhà báo có mặt trong bức ảnh thì 4 đã là liệt sĩ, 1 là thương binh
nặng. Gương mặt điềm tĩnh, ngời sáng của các nhà báo, người tuổi đời nhiều nhất
mới 38,chính là gương mặt tinh thần của người làm báo và cũng là người lính
vượt lên trên sự chết chóc và tàn khốc đến tận cùng của chiến tranh với niềm
tin trước chiến thắng cuối cùng.
Người hy sinh đầu tiên chính
là nhà báo đứng vị trí đầu tiên trong ảnh ( từ trái sang ). Đó là nhà báo – nhà
thơ Nguyễn Trọng Định, phóng viên báo Nhân Dân, cùng trong tổ phóng viên vào
chiến trường Quảng Đà một ngày với tôi. Trọng Định hy sinh lúc mờ sáng ngày 26/8/1968 khi một trái pháo nổ gần, mảnh
đạn sắc nhọn đâm thủng ba lô xuyên thẳng vào tim. Máu từ tim chảy theo đường
đạn ướt sũng ba lô. Nếu kể từ ngày chụp chung với tôi và các đồng nghiệp ở
Quảng Đà bức ảnh trên, thì chỉ hơn một tháng sau Định đã hy sinh . Cùng được cử
về Quận 2 Đà Nẵng, Định ở với Quận ủy, tôi ở với Quận đội, cách nhau con sông
La Thọ ( còn gọi là sông Cổ Cò ), một nhánh nhỏ của sông Thu Bồn. Chiều hôm trước ( 25/8 ) Định còn theo giao
liên sang thăm tôi. Bài “ Thăm quê hương anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi “
Định vừa víết xong đọc tôi nghe chiều ấy, chính là bài báo đầu tiên và cũng là
duy nhất của Định ở chiến trường. Không chỉ đổi bằng máu, Định đã đổi cả sinh
mạng mình để có bài báo đăng trang trọng trên báo Nhân Dân và phát trên Đài
Tiếng nói Việt Nam
ngày ấy. Sáng ấy nghe tin, tôi tất tả lội sông La Thọ qua tìm thăm mộ Định vừa
được mai táng vội vàng ở Xóm Bà Dưa và nhận những kỷ vật của Định do các anh
Tuyên huấn quận ủy bàn giao. Mảnh giấy bàn giao ghi vắn tắt : 1 ba lô, 1 bộ
quân phục, 1 áo khoác, 1 đài bán dẫn Trung Quốc, 1 sổ tay phóng viên, 1 bức
ảnh. Gia tài Định để lại chỉ có thế. Đáng kể nhất là bức ảnh. Đó là tấm ảnh khổ
9x12 cm chụp hình Định và người yêu là Kim , nữ phóng viên báo Nhân Dân âu yếm
ngả đầu vào nhau. Bức ảnh bị thủng một chỗ ở nơi ngực trái của Định, vết máu loang
ở đó. Tôi không giặt mà gói chiếc ba lô đẫm máu cùng những kỷ vật của Định cất
cẩn thận dưới đáy ba lô của tôi suốt những tháng năm ở chiến trường ,và đã giao
lại tận tay gia đình. Mãi 25 năm sau, năm 1993, tập thơ đầu tiên Sắc cầu vồng
của Định mới ra mắt bạn đọc. Trong lời nói đầu, nhà thơ Lữ Huy Nguyên, Giám đốc Nhà xuất bản Văn học khi đó cám ơn
gia đình, bạn bè đã gửi tới NXB những trang bản thảo của Định mà mỗi người với
những cơ duyên khác nhau còn lưu giữ được. Ông đặc biệt trân trọng “ …những trang bản thảo cuối cùng của Nguyễn
Trọng Định nằm trong chiếc ba lô đẫm máu đã được nhà văn Trần Mai Hạnh ( cùng
là bạn học dưới Định một lớp ) cùng nhóm phóng viên chiến trường lúc ấy mang
ra, giao tận tay gia đình, lẫn cả với chiếc áo khoác sờn rách nắng mưa mà cụ
thân sinh Định đã choàng cho con khi Định cầm bút vào chiến trường… “( * )
Trong cuốn nhật ký “ Trên
những nẻo đường chiến tranh “ 45 năm trước, tôi có chép lại trang nhật ký cuối
cùng Định viết ngay trước ngày hy sinh, và bài thơ Định mới làm tặng người yêu
có nhan đề" Gửi em ". Bài thơ này không có trong sổ tay và các trang
bản thảo của Định, phải chăng vì thế, chiều đó đã ôm chặt nhau chia tay rồi, đã
bước chân xuống nước rồi Định lại nhảy lên bờ sông La Thọ kéo tôi lại: " Tao có bài thơ vừa làm tặng riêng Kim
rất hay. Lúc nãy tao quên, giờ thì mày lấy sổ tay ra chép, về đọc lại rồi có gì
nói lại với tao. Chiến tranh chẳng biết thế nào. Nói dại, nếu tao hy sinh, mày
còn sống thì tìm gặp chuyển cho Kim bài thơ này, coi như đấy là những dòng cuối
cùng tao gửi lại với đời, gửi lại cho cô ấy ". Lúc ấy, nghe Định dặn
dò mà tôi cứ gai cả người. Trong ánh hoàng hôn của chiến trường, không hiểu
điềm gì và cũng không hiểu linh tính điều gì mà Định cứ nhất mực đọc cẩn thận
từng vần thơ bắt tôi chép lại. 45 năm đã qua, trang nhật ký cuối cùng và bài
thơ " Gửi em " của Định vẫn thao thức những rung cảm sâu sắc của trái
tim một nhà báo - nhà thơ , trái tim của một người lính và gương mặt tình yêu
trong sáng đến vô cùng của một thời bom đạn đã xa . Những dòng nhật ký cuối
cùng Định viết : "... Em thương yêu!
Anh đã xuống đồng bằng và ra mặt trận. Đã hiến thân cho cách mạng thì anh cũng
đã hiểu rõ tất cả những gì cần thiết mà mình phải làm trong trận đánh quyết
liệt này. Mong em Kim của anh trên đường đời luôn hạnh phúc. Và luôn trong
sáng, đẹp đẽ như mối tình giữa đôi ta. Nếu anh có không may...nhưng chắc chẳng
bao giờ có chuyện đó đâu phải không em thân yêu. Nhưng dù anh có hy sinh thì em
hãy coi đó là một niềm vinh dự, tự hào. Bởi lẽ anh thương yêu của em đã sống
trọn vẹn với trách nhiệm một người con của Đảng. Hôn em. Anh ra mặt trận đây!
" . Còn đây là bài thơ :
Gửi em
Đừng hỏi anh từ đây đến em
Qua mấy bến phà
Sông Lam hay sông Mã
Đừng hỏi anh từ đây đến em
Qua bao vùng bom nổ
Hà Tĩnh, Nghệ An
Bởi có gì đâu hỡi em yêu
Chuyến phà anh sang là chuyến phà
đêm ấy
Chúng mình về quê ngoại
Có một giọng hò lảnh lót ngang
sông
Bởi nằm dưới chùm pháo sáng cuồng
điên
Anh vẫn nhớ vầng trăng công viên
tháng bẩy
Trên vai em
Ánh trăng xanh như một tầu lá
chuối
Sau dịu ngọt cơn mưa
Bởi không gian chẳng làm xa cách
tình yêu
Bởi anh vẫn chuyện trò với em
những lúc đạn bom
những khi vắng vẻ
Bởi nếu mặt trời kia chưa vỡ ra
từng mảnh
Thì làm sao anh có thể xa em
Bốn tháng sau ngày Trọng Định hy sinh, sau khi thoát khỏi vòng vây của
7.000 quân Mỹ, nguỵ và chư hầu trong trận càn ác liệt kéo dài suốt 21 ngày ở
vùng Bắc Thu Bồn, tôi tới công tác tại Ban chính trị Quận đội quận 2 Đà Nẵng
đang đứng chân tại xã Điện Thái, huyện Điện Bàn. Chiều đó ( 30/12/1968 ) anh
Trịnh Xuân Hy ( người đứng thứ 5 trong
bức ảnh ) là phóng viên nhiếp ảnh của địa phương được tăng cường cho tổ phóng
viên chúng tôi, đang đi với bộ phận tiền phương của Ban Tuyên huấn Quảng Đà, tìm
thăm tôi báo một tin rụng rời. Anh Trần Văn Anh, uỷ viên Ban Tuyên huấn Tỉnh uỷ
Quảng Đà, tổng biên tập báo Giải phóng ( cho nông thôn ) và báo Cờ Giải phóng (
cho đô thị ) của Quảng Đà vừa hy sinh một ngày trước đó. Anh Hy lập tức đưa tôi
tìm thăm Hải Học, học cùng lớp với tôi ở Đại học Tổng hợp văn, vào chiến trường
trước tôi và lúc đó đang là phóng viên báo Giải phóng và Cờ Giải phóng Quảng
Đà. Hải Học kể lại,được chỉ thị của Thường vụ Tỉnh uỷ, từ căn cứ anh Trần Văn
Anh và các anh ở báo Quảng Đà trở lại vành đai Đà Nẵng làm nhiệm vụ. Ngày 29
/12 /1968, vừa từ Gò Nổi vượt sông Thu Bồn đặt chân lên đất Điện Thái thì một
máy bay trinh sát thình lình xuất hiện. Các anh vội chui vào một hầm tránh pháo
dưới bụi tre gẫy gục. Chiếc trinh sát quần mấy vòng thì có tiếng ầm ì của máy
bay phản lực, và sau đó một chiếc F105 quần đảo trên bầu trời quanh khu vực.
Chiếc trinh sát lao xuống phóng quả rốc két chỉ điểm chỉ cách miệng hầm mấy
mét, khói sặc sụa cả căn hầm. Các anh vừa lao lên chạy được mấy mét thì chiếc
F105 lao xuống cắt bom. Sau loạt bom, nghe tiếng kêu :
-Mình bị thương rồi các cậu ơi !
Các anh đổ xô lại thì thấy anh Trần Văn Anh đang gượng ngồi bệt trên mặt
đất, đưa tay đỡ chiếc đùi dập nát của mình. Anh nói :
-Các cậu coi, bị ri còn mần ăn chi được nữa !
Đưa anh vào bờ tre rậm ven một làng trắng, các anh ở báo ra sức cầm máu cho
anh nhưng vô hiệu. Vết thương qúa nặng, một chiếc đùi bị phá nát hoàn toàn, chỉ
còn dính hờ với cơ thể bằng một mảnh da mỏng sau mông. Anh Anh đưa tay ôm từng
người, nói :
- Chắc mình không qua được đâu. Các cậu ở lại đùm bọc nhau làm việc cho
tốt, mình mừng. Có đi công tác Hoà Vang nhớ ghé qua nhà, nói mình gửi lời thăm
chị ( bà chị ruột duy nhất còn lại của anh ) thăm tất cả.
Vừa dứt câu cũng là lúc anh trút hơi thở cuối cùng. Năm ấy anh mới 38 tuổi.
Trong bức ảnh, anh là người nhiều tuổi nhất, đứng thứ hai ngay cạnh Trọng Định...
Bốn năm sau, đêm 21 rạng sáng 22 / 5 /1972, máy bay B52 ném bom rải thảm
trúng cơ quan phía trước của Ban Tuyên huấn tỉnh uỷ Quảng Đà đóng tại núi Hòn
Tàu huyện Duy Xuyên – Quảng Nam. Anh Hoàng Kim Tùng ( người đứng vị trí thứ 6
trong ảnh ), Phó tổng biên tập kiêm Bí thư chi bộ báo Giải phóng và báo Cờ Giải phóng
Quảng Đà cùng bốn cán bộ Ban Tuyên huấn Quảng Đà hy sinh trong hang đá, bị các
khối đá lớn nặng hàng chục tấn đè lên nên không bốc cất hài cốt được suốt giai
đoạn chiến tranh. Chưa đầy một năm sau, năm 1973 anh Trịnh Xuân Hy ( người đứng
thứ 5 trong bức ảnh ), là người giúp đỡ, giới thiệu tôi vào Đảng cũng anh dũng
hy sinh trên đường công tác .
Như vậy, tám nhà báo có mặt trong bức ảnh thì bốn đã là liệt sĩ. Bốn người
còn sống sót sau chiến tranh thì đã không biết bao lần bị pháo dập, bị bom tọa
độ, bom B52 rải thảm vùi lấp. Riêng anh Đinh Trọng Quyền ( người đứng thứ 3
trong bức ảnh ) là bí thư chi bộ kiêm tổ trưởng tổ phóng viên VNTTX tại Quảng
Đà, người đọc quyết định và tuyên bố kết nạp tôi vào Đảng ở chiến trường là
thương nặng 2/4. Anh may mắn sống sót
một cách hy hữu, mà đến tận giờ mỗi khi nghĩ lại vẫn không dám tin . Đầu tháng
10 /1969, trong vòng vây của trận càn ác liệt của Mỹ tại khu vực núi Hòn Tàu,
anh Quyền bị mảnh pháo cưa mất bàn chân phải và “ hớt “ mất một phần bắp chân
trái, nhưng bàn chân phải của anh chưa đứt hẳn vẫn còn một chiếc gân giữ lại.
Anh Quyền còn đủ bình tĩnh lấy con dao mang theo tự mình cắt đứt chiếc gân này.
Khi anh Quyền tìm đến được bệnh xác, nhiều đoạn dốc đá cheo leo phải bò, lết
máu chảy đầm đìa thì vết thương của anh đã bị nhiễm trùng nặng, hoại tử, phải
cưa sát đầu gối. Không có thuốc giảm đau, chỉ có nước i ốt sát trùng, anh Quyền
phải cắn răng chịu đựng để bác sĩ cưa từng đoạn xương chân. Lính Mỹ càn vào
bệnh xá, anh được đưa xuống giấu dưới một hang đá, sau đó che lấp cửa hang lại.
Ngay phía trên hang đá là sân bay trực thăng dã chiến, phía dưới là một tiểu
đoàn Mỹ đóng quân. Suốt tháng trời giấu mình trong hang đá, nước mưa từ trên
hang nhỏ xuống ướt khắp người, vết thương nhiễm trùng nặng, lúc nhúc những
giòi...Vậy mà khát vọng sống, niềm tin mãnh liệt của anh - một nhà báo - một
chiến sĩ vào chiến thắng cuối cùng, đã thắng.
Nguyễn Trọng Định, Trần Văn Anh,
Hoàng Kim Tùng, Trịnh Xuân Hy - bốn nhà báo - liệt sĩ và cũng là bốn nhà báo - chiến sĩ, một danh xưng giản dị mà cao cao quý, không phải bất cứ nền báo chí
nào trên trái đất này cũng đều có được. Gần 400 nhà báo đã anh dũng hy sinh vì
nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Cuộc đời
mỗi nhà báo – liệt sĩ gửi lại với đời đều là những tác phẩm lớn được viết bằng
máu. Sự hy sinh của các anh, các chị đã gieo mầm cho sự sống hôm nay…
Chiến tranh kết thúc, nhưng
cuộc sống với biết bao trách nhiệm, nghĩa vụ và lo toan vẫn cất bước. Người còn
sống và cả người đã ra đi vẫn hàng ngày hiện diện trong cuộc sống hôm nay. Sau
ngày giải phóng, chị Hoàng Thị Hường cùng ba con của anh Trần Văn Anh giờ đã
trưởng thành, về tìm lại mộ chồng, mộ cha thì hoàn toàn thất vọng. Bom đạn tàn
phá nặng nề, hố bom chồng lên hố bom, máy cầy của Mỹ cầy ủi, xới tung từng vạt
đất làm thay đổi địa hình, xóa đi những vật chuẩn đến nỗi bạn bè từng chôn cất
anh Anh ngày nào cũng phải ngỡ ngàng. Họ đã mày mò tìm kiếm,nhưng không sao xác
định được chỗ chôn hài cốt của anh. Nhưng rồi hình như " trời cũng có mắt
", năm 1993, nghĩa là sau 25 năm
anh Anh hy sinh, với sự giúp đỡ của các nhà ngoại cảm, chị Hoàng Thị Hường, vợ
anh đã tìm được mộ chồng giữa một vùng bình địa đang ngập tràn mầu xanh của
mía, của bắp và lúa. Rồi 39 năm sau ngày
hy sinh, ngày 7 /8/ 2011 công tác tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sĩ Hoàng Kim
Tùng cũng đã thành công, khi những tảng đá lớn hàng chục tấn chồng chất trên
cửa hang được giải phóng. Chiếc đồng hồ liệt sĩ Hoàng Kim Tùng khi sống thường
đeo, được tìm thấy, còn nguyên vẹn, dừng kim ở ngày 24 / 5 /1972 (sau hai ngày
bị dội bom ). Vợ anh, chị Nguyễn Thị Thọ và con trai anh, cháu Hoàng Anh Tuấn
đã nhận chiếc đồng hồ kỷ vật và đón anh về an nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ thị
xã Đông Hà, quê anh. Hài cốt liệt sĩ Trịnh Xuân Hy cũng đã được tìm thấy, giờ
anh yên nghỉ tại nghĩa trang liệt sĩ nơi anh đã cất tiếng chào đời - xã Tam
Thanh, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Chỉ còn nhà báo - nhà thơ -
liệt sĩ Nguyễn Trọng Định là giờ vẫn chưa tìm được hài cốt, mặc dầu báo Nhân
Dân và gia đình đã bao năm tìm kiếm. Hài
cốt của anh đã tan hòa trong đất Điện Bàn, Quảng Nam, nơi anh nguyện nhận là
quê hương dù không cất tiếng chào đời, nơi sinh ra anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn
Trỗi mà anh đã đến tận nơi rồi đổi cả sinh mạng mình cho bài viết, nơi đã cho anh
những rung cảm sâu sắc để anh gửi lại đời những vần thơ hay đến vô cùng về đất
nước, về tình yêu, trong đó có bài thơ cuối cùng " Gửi em " anh đọc
cho tôi chép trong ánh hoàng hôn của chiến trường 45 năm trước. Anh vẫn hiện
diện trong cuộc sống hôm nay, trong các tập thơ được xuất bản, trong các bài
thơ của anh được in trên báo và vang trong các buổi tiếng thơ của Đài Tiếng nói
Việt Nam, trong hội thảo, trong hồi ức bạn bè, đồng nghiệp và cả trong nhắc nhớ
của những người thân yêu của anh.
Còn bài thơ " Gửi em
", vì lý do rất riêng, mãi 42 năm sau tôi mới chuyển được tận tay người
yêu của anh cùng những lời dặn dò cuối cùng, khi một chiều cũng nhân dịp kỷ
niệm Ngày báo chí Cách mạng Việt Nam ( 21/6) chị đến thăm tôi, khi chị và tôi
có dịp ngồi với nhau để nhớ về Trọng Định, nhớ về những kỷ niệm mối tình đầu
của chị. Đó là một chiều Hà Nội vần vũ cơn giông và mưa rất to. Trước lúc chia
tay,chị nói : " Còn bài thơ Gửi em
anh Định đọc cho anh chép từ buổi chia tay lần cuối 42 năm trước, anh vẫn giữ
thì giờ anh đọc cho em nghe đi. Em cám ơn anh rất nhiều. Nhưng anh không phải
chép lại cho em đâu. Anh đọc cho em rồi
anh công bố như lời dặn dò của anh Định. Như thế, em nghĩ, ở thế giới bên kia
nếu như có thế giới đó, chắc anh Định sẽ hài lòng. Anh Định sẽ phù hộ cho em và
cả cho anh mọi sự tốt lành trong thế giới bên này anh ạ! ".
Trong căn phòng ngưng đọng kỷ
niệm, lặng lẽ với thế giới mưa gió bên ngoài, tôi xúc động đọc những vần thơ
cuối cùng Định gửi lại với đời. Những giọt nước mắt lặng lẽ trên gương mặt chị
Kim. Trong tâm trí tôi hiện lên hình ảnh Định mặc bộ đồ bà ba đen, đi chân đất,
vai đeo xắc-cốt, lưng đeo ba lô tất tả chia tay tôi trong hoàng hôn chiến
trường 45 năm trước. Đấy là hình ảnh cuối cùng về Định trong cõi nhân gian
này./.
Hà Nội tháng 6/2013
TMH
1-Ghi chú : ( * ) Trích lời
nói đầu “ Nhà thơ – liệt sĩ Nguyễn Trọng Định “ trong tập thơ Sắc cầu vồng do
Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1993.
2-Chú thích:- Ảnh 1: Từ trái sang : Liệt sĩ
Nguyễn Trọng Định, báo Nhân Dân 2- Liệt sĩ Trần Văn Anh, báo GP&CGP Quảng
Đà. 3- Đinh Trọng Quyền, thương binh 2/4, pv VNTTX tại Quảng Đà. 4- Hải Học,
báo GP&CGP Quảng Đà. 5-Liệt sĩ Trịnh Xuân Hy, pv ảnh Ban Tuyên huấn Quảng
Đà. 6- Liệt sĩ Hoàng Kim Tùng, Báo GP&CGP Quảng Đà. 7+8 ; Trần Mai Hạnh và
Nguyễn Quốc Toản pv VNTTX tại Quảng Đà.
- Ảnh 2: Nhà báo Đinh Trọng
Quyền ( ngoài cùng bên phải ), nhà báo Trịnh Xuân Hy ( ngoài cùng bên trái ) cùng
tổ phóng viên VNTTX tại chiến trường Quảng Đà năm 1969
Ảnh 1
Ảnh 2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét