Thứ Tư, 12 tháng 11, 2014

NHỮNG CÂU THƠ HÁT SUỐT THỜI TRAI




NHỮNG CÂU THƠ HÁT SUỐT THỜI TRAI
Đọc tập thơ Từ thuở binh nhì của Mai Nam Thắng, nhà xuất bản Quân Đội nhân dân, 2014

                                         Vũ Nho

Tốt nghiêp trường Cao Đẳng Sư phạm mới dạy học được một năm, chàng trai trẻ  Mai Nam Thắng rời mái trường thân yêu vào quân ngũ khi mới 22 tuổi.  Đến nay, anh đã kịp in một tập thơ chung,  ba tập thơ riêng, một tập trường ca, ba tập truyện kí. Tập thơ  mới này chia hai phần : Từ thuở binh nhì gồm các bài viết về bạn bè, đồng đội,  thao trường, chiến trường từ khi sắp nhập ngũ  ( Nghe em tập giảng 1979), cho đến khi suy tưởng về Lau trắng Điện Biên tháng 5 năm 2014, lúc đã mang quân hàm Đại tá trên vai. Phần thứ 2 có tên là Vòng quay, cũng vẫn là người lính Mai Nam Thắng đó thôi, nhưng chỉ có 1 bài viết năm 1989 còn tất cả đều từ năm 2000 trở  lại đây. Nghĩa là  anh đã vào tuổi “ tứ thập nhi bất hoặc” hay nói một cách thơ ca như tác giả thì “ Giờ như sông tư lự dềnh dàng/ Sau cuộn xiết thác ghềnh bão lũ” ( Chỉ là ảo giác). Chia phần này riêng ra vì đây là phần nghiêng về thế sự, những chiêm nghiệm, những suy ngẫm về sự thấp cao, sự phải trái, sự  đúng sai, sự riêng tư, sự vĩnh hằng của một người từng trải.

          Bởi thế mà đọc tập thơ này, bạn đọc sẽ bắt gặp những câu thơ hát suốt thời trai ( câu thơ trong bài Thả một bông trang về cuối hạ). Thầy giáo trẻ nghe đồng nghiệp giảng tập mà liên tưởng, tưởng tượng thời cấy đêm  trong chiến tranh chống Mĩ:
          Em chưa một bận cấy đêm
          Mà sao em giảng như em đã từng
          Mà sao anh cứ tưởng chừng
          Thoảng đâu đây có vị bùn hơi sương
                                Nghe em tập giảng
Vào lính rồi, nỗi nhớ về hậu phương là kỉ niệm tuổi học trò cùng với kỉ niệm của thầy giáo trẻ về “ sân trường phượng đã xòe diêm”:
          Buổi chia tay phượng bừng bừng như biển cháy
          Để bây giờ nỗi nhớ rợp màu hoa
                                Nhớ từ đảo nhỏ
Những bài thơ thuở binh nhì ấy thấm đẫm hình ảnh thao trường :
          Trưa chiến hào  nắng như bốc lửa
          Gió điên cuồng thốc lá ngụy trang
                             Điệp khúc tháng Ba
Và là người lính cho nên  bên một Hà Giang mơ mộng yên bình : “ Ngựa chồn chân râm ran phiên chợ/ Điệu khèn môi vấn vít câu mời” giờ lại có :
          Thêm một Hà Giang trận mạc bời bời
          Cót Ép, Đồi Đài, Lò Vôi Thế Kỉ
          Đêm Cô Ích thức cùng chiến sĩ
                                 Hà Giang
Những vần thơ khỏe khoắn,  trẻ trung, anh hát về những đồng đội của mình. Họ là các chiến sĩ ra đa ở Sơn Trà:
          …ngày hè bỏng rát
          Vượt dốc dài áo quắt mồ hôi
          Trái sim cằn lăn như hòn sỏi
          Cỏ may găm phơ phất đỉnh trời
                             Hát ở Sơn Trà
Họ là các chiến sĩ lính công trình tập lên sóng trong tiết mục “ Chúng tôi là chiến sĩ”, là những người lính đảo chịu bao gian khó và thiệt thòi để giữ biển thiêng liêng của Tổ quốc:
          Có lá thư nửa năm vừa nhận
          Có thằng cu biết lẫy biết bò chưa biết mặt cha […]
          Ba mươi năm như thế
          Lính công trình vẫn lính Trường Sa
          Vẫn sắt thép, xi măng
          Và lời thề giữ biển
          Tổ quốc lớn mỗi ngày trên bão tố phong ba
                             Lính công trình ở Trường Sa
Là người mặc áo lính nên Mai Nam Thắng nhạy cảm với những vấn đề chiến tranh và hòa bình, hi sinh và mất mát. Anh viết về đồng đội của mình với bao cảm thông, trân trọng, ngậm ngùi:
          Bao nhiêu anh hùng thăm thẳm ra đi
          Xanh tê tái những mùa rau ngóng đợi
          Bao nhiêu anh hùng trở về xa lạ
          thương tích ngẩn ngơ
          long đong cơm áo…
          loay hoay mũ áo cân đai…
                       Rau tập tàng
Một đồng đội  ở Mai Đình là  hình ảnh gặp hàng ngày của bao nhiêu binh nhất, binh nhì  trong quân đội của chúng ta hoàn thành nghĩa vụ trở về “Quân phục bạc sờn xuôi ngược mưu sinh”:
          Xắc cốt ngang hông
          Quần quá gối
          Vợ đang son bữa cơm nào cũng đợi
          Chiếc xe tàng bê bết bùn ao
          Gặp nụ cười là nhận ra nhau
          Dẫu quân phục bạc màu mưa nắng
                              Gặp ở Mai Đình
Đặc biệt nhất là người lính Mai Nam Thắng luôn đau đáu với những hi sinh của lớp lớp cha anh, những người đồng chí, động đội.  Thạch Hãn, một địa danh lịch sử đầy mất mát,  đau thương, trong cảm nhận của anh:
          Đỏ như mùa hè năm Một Chín Bảy Hai
          Ve ran..
          Ve ran…
          Đôi bờ nắng xối
          Xanh nghẹn ngào Thạch Hãn những mùa hoa
                             Phượng hồng Thạch Hãn
Những bài thơ Hoa loa kèn, Phượng hồng Thạch Hãn, Những mùa kí ức, Lau trắng Điện biên và ba bài thơ  cùng chủ đề về hang Hà ( Sim tím đồi Hà, Tiếng hú ở lèn Hà, Đọc ở hang Hà), nơi các chiến sĩ thông tin hi sinh trong chiến tranh là những suy tư, tưởng niệm của anh với những hi sinh vô bờ của các chiến sĩ “… đã hóa vô danh/ Hóa cánh rừng sốt rét tái xanh/ Hóa vầng tăng hạ tuần ối đỏ”. Tình cảm của người lính cũng là tình cảm của toàn dân với  sự hi sinh của các chiến sĩ:
          Người xưa đã tím vào hoa
          Ngàn sau xin chẳng phôi pha lòng người
                             Sim tím đồi Hà
Bài thơ Lau trắng Điện Biên là một bài thơ giàu chất suy tưởng tác giả khép lại phần thơ thứ nhất Từ thuở binh nhì. Đấy là một bài thơ hay viết về lau sau những câu thơ “hồn lau” của Quang Dũng. Không phải ngẫu nhiên mà bốn câu kết của bài thơ được tác giả chọn in lên trang gấp của bìa một:
          Như nỗi niềm kí thác của ông cha
          Như đất nước trường sinh tươi tốt
          Như người lính ngàn đời bên cột mốc
          Lau vĩnh hằng trong cõi Nhân Dân!
Phần thứ hai của tập thơ   có nhan đề Vòng quay…như đã nói ở trên là phần nghiêng về thế sự và suy ngẫm. Thật ra, sự suy ngẫm thế sự cũng đã có trong phần thứ nhất rồi. Ví dụ bài “Rau tập tàng”. Cái món rau dân dã tự kiếm tiễn người ra trận ấy đâu có ngờ  : “ Ai hay một ngày hotel chọc trời/ Có món rau tập tàng đặc sản/ Thực khách hồn nhiên/ Rôm rả nói cười…”. Đó chẳng phải là thế sự hay sao? Có điều ở phần này, sự suy ngẫm, chiêm nghiệm tập trung hơn, giọng điệu thơ cũng tung tẩy, phóng khoáng và thêm chất hài hước, trào lộng. Không chê thẳng anh nhà giàu xổi lên, thành trọc phú, nhưng ta không thể  không mỉm cười vì cái câu hỏi có vẻ bâng quơ này:
          Chao ơi biệt thự nguy nga
          Tiện nghi toàn đồ hạng nhất
          Ngó quanh tìm cái giá sách
          Chẳng hay kê ở phòng nào?
                             Thơ đề biệt thự
( Một người quen tôi kể đến nhà đại gia, tủ sách toàn sách bìa cứng dày cộp, đứng ở chỗ trang trọng nhất, phải đến mấy trăm triệu cả tủ lẫn sách. Nhưng chủ nhà không đọc một trang nào, vì chỉ chơi sách mà thôi!)
          Rồi cái chuyện giáo sư Ngô Bảo Châu giải được bổ đề, được nhận huy chương Fields,  thì nhà thơ ngẫm  ngợi :
          Thiên tài lại đi bổ đề còn đó
          Bổ đề kẹt xe tắc đường nghẹt thở
          Bổ đề lạm thu phụ huynh nhăn nhó
          Bổ đề Viện phí thoi thóp bệnh nhân
          Bổ đề Giá lương long đong nội trợ
          Bổ đề cúp điện phố xá quạt mo
          Bổ đề  Xin –cho cửa quyền tham nhũng
          Bổ đề Thủ tục một mớ bòng bong…
          Ngàn vạn bổ đề làm sao giải xiết?
Tuy là thơ vui, nhưng là vui cười …ra nước mắt…
Những việc bình thường hàng ngày như chú Thọ được thăng  chức, anh Huy Thiêm sắp về hưu, nhạc sĩ Lương Nguyên mất con yểng quý, anh bạn nhà giàu đi xe đạp để giảm cân, ngọn su su Tan Đảo…đều vào thơ một cách tự nhiên, vui vui,  hài hài nhưng không khỏi làm cho người đọc suy ngẫm về vòng quay giàu nghèo,  vị trí quyền lực, đường công danh, đường bạn bè, việc chung và việc riêng… Ví như chuyện của nhạc sĩ Lương Nguyên:
          Nào bảo vệ tác quyền
          Nào bảo tồn nhạc cổ
          Tiếng chim nhà mình thì quên bảo hộ
          Cơ sự đã rồi…ngơ ngẩn vào ra…
Và cái chuyện “ Được rẽ phải” ba năm luôn đổi thay khiến ta nghĩ đến câu  tục ngữ mới trong dân gian “sáng đúng, chiều sai, đến mai lại đúng”! Phần này, nhà thơ cũng thể hiện cái tôi nhiều hơn (  Gửi bạn bè ở Hà Nội, Trên đường về quê, Lục bát cho mình, Làm sao tạ lỗi, Khai bút Trang Xuân, Ngoài vùng phủ sóng, Trong đêm mộng mị). Khi thì giọng điệu nghiêm trang ( Làm sao tạ lỗi); khi thì thủ thỉ dặn dò ( Trên đường về quê); khi thì hồn nhiên tự thú ( Gửi bạn bè ngoài Hà Nội); khi thì tếu tếu hài hài ( Lục bát cho mình) trong những câu thơ sau:
          Lai Châu đèo dốc trập trùng
          Mẹ leo, mà bố con cùng gian lao […]
          Nhà ta có một tiên nàng
          Không chui vỏ thị, đàng hoàng Chaly
          Nàng đi, sung sướng theo đi…

Hai phần của tập thơ, hai mạch thơ vừa bổ sung, vừa nâng đỡ cho nhau, vừa cân bằng giữa hướng ngoại và hướng nội; giữa cảm xúc và trí tuệ; giữa hồn nhiên, trong trẻo với  già dặn, suy tư; giữa nghiêm trang và hài hước. Điều đó làm cho tập thơ đa thanh, đa giọng trên một sự thống nhất tâm hồn của nhà thơ áo lính Mai Nam Thắng.

                                                                    Hà Nội, 31/10/2014
Đăng báo Quân Đội nhân dân, số 19253, ngày 12/11/2014
         

          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét