THƠ ĐƯỜNG VĂN
VỚI LỜI BÌNH
HOÀNG DÂN
ĐUỐI
THU, AI ĐẮM…
ĐƯỜNG
VĂN
Tháng mười thủng thỉnh, hoài thu,
Mơn
mơn hanh mỏi chẳng ru nổi… tình.
Rạc
rời, khung cứ xa tranh?
Chong
khuya, hoang hoải giấc thành mộng du…
Chông
chênh, chấp chới sa mù,
Lạnh
lưng chiếu cũ, ầm ù sấm xa.
Lang
mang, lạc lối cùng ma,
Nửa
trời nhạt thếch, nửa ta bẽ bàng…
Tận
thu, mướp rũ hoa vàng,
Thui
thủi sen tàn, mình thoáng mình ai…?
Khẳng
khô, khế rụng cành sai,
Xiêm
hồng xao xác, chat bài ve ngâm.
Hoài
thu, riêng chuốc âm thầm,
Hồn
lây lặng lặng, lầm lầm đợi đông!
Tháng
mười, cười méo* thinh không,
Nghiêng
chiều lá đổ, dốc đồng oải phơi…
Đuối
thu, ai đắm cùng tôi?!
Chiều muộn, 29 – 30 - 9
– đêm 2 - 10 – 2014. ĐV
LỜI BÌNH của HOÀNG DÂN
Chỉ với cái nhan đề bài thơ này cũng đủ để “gây sự” với tác giả! Người ta quen gặp cách nói, ví như “học lực của cháu hơi đuối” (tức là hơi
kém) hoặc “hai cháu bé bị đuối nước” (chết đuối)…; còn Đường Văn dùng “đuối thu”, nghe có vẻ lạ? Vậy, nên hiểu
“đuối thu” của Đường Văn thế nào? Mùa
thu đang hấp hối hay là đã chết hẳn rồi? Thiên nhiên và cuộc sống trong thơ là
thiên nhiên và cuộc sống của tâm trạng. Mùa thu trong tâm trạng Đường Văn thê
thảm như vậy mà sao còn hỏi “ai đắm”? Phải chăng cái nghịch lí này là một dụng ý nghệ thuật của tác giả?
Những
câu hỏi trên hình như đã được hé mở lời đáp ở ngay khổ thơ đầu:
Tháng mười thủng thỉnh, hoài thu,
Mơn mơn hanh mỏi chẳng ru nổi… tình.
Rạc rời, khung cứ xa tranh?
Chong khuya, hoang hoải giấc thành mộng du…
Tháng
mười là tháng đầu tiên của mùa đông, nên tác giả mới “hoài thu”, tức là nhớ mùa thu đã thành hoài niệm (đã chết), nhưng
đây là cái chết trong tâm trạng chứ
không phải cái chết cơ học; thế nên thiên nhiên cũng thấm đẫm cái mệt mỏi, ngơ
ngáo của tuổi già với “mơn mơn hanh mỏi
chẳng ru nổi… tình”! Già rồi, còn tình gì nữa để mà ru với rím đây? Xin
thưa, tất cả những gã đàn ông đa tình trên cõi đời này chỉ cam chịu “già bộ phận”, “già xôi đỗ” thôi chứ nhất
định không bao giờ chịu thừa nhận già toàn bộ và tuyệt đối! Không “ru nổi… tình” có thể là không tán được
gái trẻ như thời thanh niên hoi thôi
chứ đâu phải là đã… triệt sản ham muốn?
Vẫn ham, vẫn thèm, vẫn đắm đuối…; nhưng nếu dại dột mà mở mồm ra thì sẽ lố bịch
như “khung cứ xa tranh”! Và cái hiện
thực tàn nhẫn trong những ngày tàn của một kiếp người là “chong khuya” (những đêm thức trắng) và “mộng du” (những giấc mơ bản năng ma quái).
Đến
khổ thứ hai:
Chông chênh, chấp chới sa mù,
Lạnh lưng chiếu cũ, ầm ù sấm xa.
Lang mang, lạc lối cùng ma,
Nửa trời nhạt thếch, nửa ta bẽ bàng…
thì ngoài những
cơn mộng du còn là nỗi cô đơn có pha chút ê chề. Cô đơn vì cái “chông chênh, chấp chới” như ngọn đèn dầu leo lét trước gió; ê chề bởi cái “chiếu cũ” gần nửa thế kỉ vẫn còn… dùng
tốt! Để tìm cảm hứng sống, cảm hứng sáng tạo…, các nghệ sĩ thường ưa thích chủ
nghĩa xê dịch, tức là ưa kiếm tìm cái mới, cái lạ; còn ta thì đang sống với chủ nghĩa… đổ bê tông, tức là cũ, mòn
tới mức dị ứng, phản cảm! Thế mà vẫn cứ phải sống, thậm chí còn luôn phải nhe
răng cười hềnh hệch như thể là đang vui lắm! Đây chính là tấn bi kịch tinh thần đau đớn và dai dẳng
của những gã đàn ông có máu thơ phú văn chương, tức là máu nghệ sĩ. Hai câu
cuối của khổ thơ này thật buồn. Nhịp điệu như cố ý muốn kéo dài mãi ra:
Lang mang lạc lối cùng ma,
Nửa trời nhạt thếch, nửa ta bẽ
bàng!
Thực ra, ta đang sống những ngày tàn trong hình hài của một bóng
ma vật vờ. Khi tỉnh, chỉ thấy đời nhạt thếch và bẽ bàng; khi mê,
ta chỉ là một kiểu nạn nhân đáng thương... Theo tôi, đây là 2 câu được nhất trong bài.
Khổ thứ ba:
Tận thu, mướp rũ hoa vàng,
Thui thủi sen tàn, mình thoáng mình ai…?
Khẳng khô, khế rụng cành sai,
Xiêm hồng xao xác, “chat” bài ve
ngâm.
Câu đầu có hai chữ “tận
thu” khá hay. Chúng ta quen nghe “năm
cùng tháng tận” thì cũng có thể suy ra “tận
thu” là “ngày cuối cùng của mùa thu”,
nhưng thời gian trong bài thơ là tháng đầu đông, vậy “tận thu” phải hiểu là “mùa
thu đã chết rồi”. Cái chết của mùa thu dường như kích hoạt cho một sự sụp
đổ không sao cưỡng nổi: mướp rũ hoa vàng,
thui thủi sen tàn, khế rụng… Mùa thu còn là một ẩn dụ chỉ tuổi tác, ví như
“ba mươi mùa thu cái lá vàng rơi”,
vậy “tận thu” ở đây cũng có thể hiểu
là “tận mạng” – những ngày cuối của
một kiếp người. Nghe có vẻ bi quan, nhưng nên nhớ: ngũ thập thọ vi niên, lục thập thọ vi nguyệt, thất thập thọ vi nhật,
bát thập thọ vi khắc – xưa, U70
là sống ngày nào biết ngày ấy! Chữ chat
(khái niệm công nghệ internet) định
đưa bài thơ trĩu nặng u hoài quá khứ xa xôi trở về thời hiện tại với thế hệ @
sôi động, nghe cũng hơi là lạ!
Khổ cuối:
Hoài thu, riêng chuốc âm thầm,
Hồn lây lặng lặng, lầm lầm đợi đông!
Tháng mười, cười méo* thinh không,
Nghiêng chiều lá đổ, dốc đồng oải phơi…
Đây
là khổ thơ hô ứng với khổ thơ đầu
tiên, có sự lặp lại của “hoài thu” và
“tháng mười”, nhưng là một “hoài thu” chết lặng của tâm hồn và một “tháng mười” nhăn nheo, dị dạng. Thiên
nhiên thì ầm ầm chuyển động, còn lòng người thì meo mốc, tơ hơ. Một sự đào thải
tất yếu đang diễn ra. Ngu si không cảm nhận được sự đào thải đó thì cứ vô tư mà
hưởng… thái bình! Còn những kẻ có dăm ba chữ giắt lưng ý thức sâu sắc được điều
đó thì có hoảng hốt, có sợ hãi, có buồn, có tiếc…, nhưng cũng đành bất lực
buông xuôi…!
Câu kết bài thơ: “Đuối
thu, ai đắm cùng tôi?!” vừa có vẻ như một lời than ai oán, tuyệt vọng;
lại vừa giống như một cú giãy bản năng
cuối cùng của mọi sinh vật khi bị… cắt
tiết! Đặc tả nỗi buồn, nỗi thất vọng, sự cô đơn, mặc cảm bẽ bàng, ngán
ngẩm… như thế, kể cũng đáng gọi là một
câu thơ hay, ám ảnh?!
Thạch
Bàn, 24.10.2014. HD
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét