Tác giả Phạm Thị Bích Thủy
ĐỒI CÁT BAY TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ TRẺ NHỎ
Đọc
Đồi
cát bay, tiểu thuyết của Phạm Thị Bích Thủy, nhà xuất bản Hội Nhà văn,
2014
Vũ Nho
Khi tập truyện ngắn “ Chạy trốn” của tác giả Phạm Thị Bích Thủy xuất hiện,
người
đọc đã kì vọng về sức viết của cây bút nữ có vốn văn hóa, vốn sống và vốn trải
nghiệm phong phú này. Đây là trích ngang
bản lí lịch tóm tắt của tác giả do nhà văn Ma Văn Kháng cung cấp “đi nhiều. Lên rừng, xuống biển. Leo núi, lội
đồng. Ra Bắc, vào Nam .
Anh , Pháp, Úc, Mỹ, Singapore, Hongkong là trường giao tiếp thường xuyên. Qua
hết châu Âu, châu Mỹ lại châu Phi. Giao tiếp với đủ các loại chức sắc, các hạng
người. Trực tiếp tham gia vào đủ các công việc lớn nhỏ với tất cả niềm say mê
háo hức của một tuổi trẻ yêu tha thiết cuộc đời và sự nghiệp” ( Những trang
viết đầu tay và một cuộc chuẩn bị - trong tập Chạy trốn). Sự chuẩn bị kĩ lưỡng đó đã giúp cho tác giả trong cùng
một năm, sau tập truyện ngắn, trình làng
tiếp tiểu thuyết “Đồi cát bay”.
Đây không phải là vùng quê mà tác giả
sống thời niên thiếu, cũng chẳng phải môi trường mà tác giả quen hoạt động với
tư cách nhà quản lí trẻ. Mũi Né, Phan Thiết giỏi lắm thì tác giả cũng đến
khoảng “hơn một lần” với tư cách người du lịch. Nhưng chính bãi biển đẹp nhất
Việt Nam với những đồi cát nổi tiếng của nó đã trở thành bối cảnh để tác giả
viết tiểu thuyết luận đề về đói nghèo và trẻ nhỏ; một vấn đề không chỉ của địa
phương Bình Thuận, không phải chỉ riêng Việt Nam, mà là vấn đề của thế giới ngày nay. Ở đây có sự kết hợp giữa
câu chuyện vùng Mũi Né với câu chuyện
vùng Busia của Kenia châu Phi, có sự
tương đồng và tương phản giữa một bên là Mĩ Tiên, người mẹ trẻ có cô con
gái nhỏ tật nguyền, cùng với dì Lượm,
người đàn bà bán bánh bột lọc - những người phụ nữ hết lòng vì con cái; và bên
kia là người mẹ của Út Lớn, bà Hai Ù- bà ngoại của cái Bàu, và xa hơn nữa là
những người đàn bà ở châu Phi mà điển hình là mẹ của Chồi non.
Một
bên, người mẹ có văn hóa quyết tâm : “ Mẹ sẽ làm mọi điều cho con, tất cả những gì
mà con người làm được, con yêu quý ạ” ( tr. 51). Cùng với người mẹ trẻ ấy
là một người mẹ nghèo vùng đồi cát, dì Lượm
suy nghĩ mộc mạc: “ Khổ thì ráng
bầm gan mà chịu, ngày qua ngày, đêm qua đêm, tháng qua tháng, cố là sẽ qua. Làm
mẹ thì phải ráng lo cho con, dù khổ mấy thì mình cứ cố là nó xong” (
tr.162). Bên kia là mẹ thằng Út Lớn chỉ biết thu tiền của con, sẵn sàng nói
dối, lừa người tốt để kiếm lợi. Cũng như thế là bà Hai Ù, hứa một đàng, làm một
nẻo chỉ biết cái lợi trước mắt. Và xa hơn là
những người đàn bà châu Phi, họ chỉ biết đẻ con, sống bằng viện trợ và
không học hành, làm lụng. Phải nói rằng thủ pháp xây dựng nhân vật song chiếu
không mới, nhưng Bích Thủy đã thành công trong một số truyện ngắn trước đây ( Thằng Tê, Ăn cắp) bây giờ trở nên nhuần
nhuyễn trong tiểu thuyết này và hiệu quả nghệ thuật thật ấn tượng.
Nhà văn nữ có cảm hứng và thiên hướng
viết về những người nghèo, những nhân vật trẻ nhỏ ( Thằng Tê, thằng Nhất, cái Phúc, con Na…- trong tập truyện Chạy trốn), giờ đây có thể tập trung nói
về thân phận của những đứa trẻ cho thuê ván trượt ở vùng đồi cát. Một mặt,
người đọc được thấy cảnh đẹp của tự nhiên, của những khu nghỉ dưỡng đẹp như
tranh của vùng biển nổi tiếng. Nhưng mặt khác, đấy mới là chủ yếu, chúng ta sẽ được
thấy “đằng sau những boutique” ( nhà hàng) “ những căn nhà nghèo nàn lợp lá, lợp tôn, ngược xuôi lúp súp, nhấp nhô
trên những cồn cát đỏ - nhà của những
người nông dân, ngư dân”. Và điều quan trọng là chúng ta sẽ được chứng
kiến cảnh này “ Từ lều của những người
đàn bà đang cạy sò, xẻ cá và bóc mực những dòng nước đen lênh láng, đặc sệt
chảy ngược ra biển. Vỏ sò, túi ni long, vô vàn rác thải tranh chỗ với người làm
cho bãi cát trở nên vô cung nhày nhụa và hôi thối”. Trả lời câu hỏi ngây
thơ của bé Rùa vì sao họ khổ thế, sao họ không làm sạch biển đi, Mĩ Tiên đã nói
: “ Họ
nghèo quá, họ không được học hành nên họ không biết cần làm sạch thế nào và
cũng không cần thấy phải làm sạch con ạ” ( tr.14).
Hai nhà nghèo điển hình là nhà của mẹ
Út Lớn tuềnh toàng, một cái giường để đồ đạc, một cái 7 người chen chúc ngủ. Đồ
đạc thì có một cái ti vi Tàu ọc ạch, một nồi cơm điện cũ “bị chảy nhựa sệ xuống
một bên”. Thức ăn quanh năm là canh đầu cá.
Và nhà thứ hai là của bà Hai Ù, bà
ngoại của cái Bàu “ một căn không ra nhà,
không ra lều lợp tôn trống ngoác. Không gọi là nhà được vì nó là một khối sập
xệ được che nguệch ngoạc bên trên và bốn xung quanh bằng những mảng tôn cũ, đó
là một cái “hộp” tôn to rách nát hay là cái gì đó na ná như vậy” ( tr.
173). Đặc tả cái nghèo và bẩn ấy là cảnh này “ phía sau chiếc giường là cái
bếp củi, xung quanh la liệt nồi, soong chảo đen sì, cách đó không xa có mấy
chiếc can nhựa cũ đựng nước. Mấy con gà chạy lung tung giữa đống nồi soong và
can nước, vừa đi vừa cục cục gọi nhau, vừa ỉa soẹt soẹt. Một con gà bỗng nhiên
hứng chí nhảy vào cái chảo để trên mặt đất mổ cái gì đó cốc cốc rồi ỉa đánh
soẹt luôn vào cái chảo đó” ( tr. 175). Vì không được học hành nên nghèo. Vì
nghèo nên chẳng quan tâm đến học hành. Đó là vấn đề mà tác giả đặt ra qua các
hình tượng và cả bằng những lời cảm thán trực tiếp với hàng loạt câu hỏi :
“ Cuộc
sống của người nông dân, ngư dân luẩn quẩn và mù mịt quá, đói nghèo thì thất
học mà thất học thì đói nghèo! Bao giờ thì thế giới có thể được đổi thay như
Nelson Mandela mơ ước? Làm sao để người
ta hiểu được Giáo dục là vũ khí quyền lực nhất mà bạn có thể sử dụng để đổi
thay thế giới như Mandela nói? Bao giờ thì thế giới được đổi thay? Bao giờ
thì ở Đồi cát bay không còn trẻ em mù
chữ, không còn trẻ em thất học nữa?” ( tr.194).
Hai vấn đề lớn nhất của dân cư vùng này là
NGHÈO và THẤT HỌC. Mười bốn chương là mười bốn
cảnh xoay quanh những đứa bé nghèo cho thuê tấm trượt ở đồi cát. Chúng
không biết đến trường là gì. Chúng không thấy cần đi học. Chúng chỉ biết ngày
ngày hai buổi chèo kéo khách du lịch, tranh khách lẫn nhau, rồi có tiền thì
giấu bớt đi để “bấm chát” ( chơi ghêm). Tuy vậy thằng Út Lớn, nhân vật
chính bé nhất trong bọn luôn cảm thấy
“sao sao đó”. Nó ghét cái “thứ hai là
ngày đầu tuần” vì không có người đi
chơi, không cho thuê được tấm trượt. Nó lại tò mò muốn biết “cái đi học” là cái gì mà ai cũng hỏi nó.
Rồi nó theo thằng Tiến đến trường mà nhòm vào thèm thuồng. Rồi nó được ông John
cho tiền học nhưng mẹ nó đem mua nhẫn vàng và vẫn bắt nó đi kiếm tiền, chỉ đi
học buổi tối ở nhà bà giáo Tâm, học theo kiểu nhìn tranh đọc chữ. Nó băn khoăn
vì anh Hai Hơn của nó không đi học nên
không kiếm được việc làm. Vì không có
việc làm, thất nghiệp mà anh nó tự tử. Tình huống thầy giáo Thiện xuất hiện dạy
tiếng Anh cho lũ trẻ và cuộc làm việc với nhà chức trách địa phương cho thấy
tính sĩ diện của chính quyền và “độc quyền” mở trường, độc quyền “quản lí” mặc
cho lũ trẻ không đi học. Cùng với chi
tiết ông John giúp Út Lớn, Mĩ Tiên giúp
cái Bàu, muốn Út Lớn về thành phố học tập cho thấy tấm lòng từ thiện như thế chưa đủ để giải
quyết vấn đề đói nghèo và thất học.
Hai cái chết thảm của Hai Hơn ( không
đi học, không biết chữ nên không kiếm được việc làm) và cái chết của Út Lớn vì
không biết chữ, không đọc được nhãn thuốc diệt mối, tưởng nhầm đó là “ sữa”
nhấn mạnh thêm tính chất luận đề của tiểu thuyết này.
Gần hai trăm trang sách được viết kĩ
lưỡng, chặt chẽ và hấp dẫn. Bằng một khả
năng nhập vai vào trẻ nhỏ và sử dụng ngôn ngữ địa phương nhuần nhuyễn, chính
xác, Phạm Thị Bích Thủy cuốn hút người đọc
với vai trò người dựng chuyện lành nghề. Đây là một dấu mốc quan trọng
trên con đường theo đuổi sự nghiệp văn
chương của tác giả. Tôi tin tưởng rằng với vốn văn hóa, vốn sống phong phú và
những kinh nghiệm viết đã tích lũy, Phạm Thị Bích Thủy sẽ còn đi xa, đi rất xa.
Hà
Nội, 2/11/2014
Bài đăng trên Quân Đội Nhân Dân cuối tuần số 985, ngày 16/11/2014
Đồng hương :)
Trả lờiXóaCám ơn bạn đã ghé trang!
Xóa