ANNA
AKHMATOVA – NỮ HOÀNG THI CA NGA
Anna Akhmatova, một trong những đại diện xuất sắc của
thơ Nga thế kỷ XX, người được tôn vinh
là Nữ hoàng thi ca Nga.
Akhmatova tên thật Gorenko, sinh ngày
11.6.1889 tại Ôđesa, mất ngày 5.3.1966 ở ngoại ô Moskva. Sinh trưởng trong một
gia đình trí thức, từ nhỏ bà được học tại trường Hoàng Thôn, nơi Puskin đã từng
học. Năm 1908-1910 bà thi vào chuyên khoa luật, trường Cao học nữ Kiev, sau đó
chuyển sang học khoa Văn - sử. Năm 1910 Akhmatova kết hôn với N.S. Gumilev, sỹ
quan, nhà thám hiểm và là nhà thơ lớn. Song cuộc hôn nhân giữa hai nhà thơ
không bền, tám năm sau họ chia tay nhau.
Akhmatova có đời thơ dài hơn nửa
thế kỷ. Bà là một trong những thi nhân đã làm rạng danh cho văn hoá Nga đầu thế
kỉ XX được mệnh danh là “thế kỷ Bạc” và là người gìn giữ, phát triển những
thành tựu rực rỡ của thơ Nga trong suốt những giai đoạn tiếp theo bằng đường
thơ độc đáo của mình.
Con đường ấy, như nữ sĩ Olga Becgon miêu tả, “giống như mọi đường
đời, không thẳng, không bằng phẳng đồng bằng, mà cheo leo, quanh co đường núi.
Vẫn luôn là mình, có lúc dường như đi lại những cua đường đã qua, nhà thơ, trên
thực tế, vẫn leo lên cao không ngừng nghỉ và nếm trải tất cả: lúc bão giông, lúc
sa mạc, khi là vùng đất nở đầy hoa, “chiếm lĩnh” chúng bằng thơ,
luôn hướng lên đỉnh núi mà độ cao của nó nhà thơ không thể nào biết được và
không bao giờ xác định trước được...”. Đường thơ Akhmatova là như vậy, và
mỗi giai đoạn sáng tác của bà là một khúc trên con đường gian khó, cheo leo ấy,
là một bộ phận của cái cơ thể thơ sinh động đang trên đà vươn tới đỉnh cao.
Những bài thơ đầu tiên Akhmatova viết từ năm 1903-1904. Thời kỳ này bà
sáng tác gần 100 bài thơ, song phần lớn đã không còn giữ được. Tên tuổi
Akhmatova thực sự xuất hiện vào năm 1912, khi tập thơ đầu tiên Buổi chiều
của bà ra đời với lời đề tựa của M.A. Kuzmin, nhà phê bình nổi tiếng đương
thời.
Ngay trong những sáng tác đầu tay, Akhmatova đã tìm tới văn hoá và lịch
sử dân tộc, sử dụng những môtip tín ngưỡng, ngôn
ngữ dân gian. Qua tư tưởng và kết cấu trữ tình của những bài thơ thời kỳ này đã
hình thành những đặc điểm thi pháp đăc trưng cho thơ Akhmatova mà bà phát triển
trong các giai đoạn sáng tác tiếp theo của mình: trữ tình được cấy vào miếng
đất sử thi, nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật dựa trên những “đối
thoại ngầm”, độc thoại nội tâm, những chi tiết cụ thể, tính cốt truyện,
nghệ thuật khắc hoạ tâm lý kiểu văn xuôi, những câu thơ dệt từ chất liệu đời
thường được nâng lên tầm khái quát...
Tập thơ thứ hai Chuỗi tràng hạt (1914) đã tạo bước ngoặt trong sự
nghiệp sáng tác của Akhmatova. Các tạp chí đua nhau in thơ của bà, các nhà phê
bình nổi tiếng nói về bà như một tài năng lớn trên thi đàn, người kế tục xứng
đáng truyền thống Puskin.
Tập thơ thứ ba Đàn chim trắng của Akhmatova ra đời ngay
trước cách mạng Tháng Mười năm 1917 -
như sự tổng kết cả giai đoạn thơ trước đó.
Những năm 1920-1930 bà đã hoàn thành hai tập thơ xuất sắc: Cây mã đề và Anno Domini, trong đó thơ bà
vẫn bám chắc vào mảnh đất Nga, cuộc sống và con người Nga đang phải chịu những
mất mát khủng khiếp do nội chiến, đói rét và các cuộc thanh trừng đẫm máu gây
ra. Nhiều nhà phê bình cố gắng “giải mã” thơ Akhmatova, lí giải sức hấp dẫn của
thơ bà. Thực ra mật mã của thơ Akhmatova nằm trong một câu ngắn gọn, song rất
nổi tiếng của Belinski: “Để thể hiện được cuộc sống, thơ trước hết phải là
thơ”. Bí mật của thi pháp Akhmatova là ở chỗ bà đã cảm nhận được bản chất thơ
Puskin, người có được phép nhiệm màu của nữ thần Afrodit, biến những cái cụ thể
hàng ngày thành thơ. Và Akhmatova đã khám phá ra nghệ thuật kỳ vĩ trong sự giản
dị, trong sáng đến lạ lùng của thơ ông:
PUSKIN
Ai biết được thế nào là vinh quang?
Bằng giá nào ông có được quyền năng
Sáng suốt, tinh ranh phán về mọi sự
Lúc đùa cợt, khi đăm chiêu, tư lự
Lúc lặng im, bí ẩn không cùng
Gọi đúng tên sự vật chẳng ngại ngùng.
Trong thời gian cực kỳ gian khó này
Akhmatova đã hoàn thành Khúc tưởng niệm (1935-1940) và bắt tay vào viết Trường
ca không nhân vật - những kiệt tác minh chứng cho tài năng và lòng dũng cảm
của nhà thơ, người bằng cả bản năng và lý trí đã vượt lên trên căn bệnh ấu trĩ
của thời đại. Âm điệu bi tráng vang lên trong hai tập thơ này và bên cạnh những
bài thơ tiếp tục đề tài trữ tình những năm 1910, xuất hiện những bài thơ mang
môtip công dân và môtip tôn giáo
* *
Có lẽ không một người Nga nào lại không thuộc thơ Akhmatova. Thơ bà được
phổ nhạc khá nhiều, chính vì thế sức lan truyền của nó thật lớn. Bà là nhà thơ
viết về nhiều đề tài, song dù có viết về đề tài gì thì tình yêu luôn là những
đốm sáng lấp lánh trong từng câu thơ của bà. Và người Nga đã tôn vinh Akhmatova
là “bà chúa thơ tình” của thế kỷ XX.
Ngay từ
những bài thơ đầu tiên mình Akhmatova đã làm độc giả sửng sốt bởi những ngụ ý,
liên tưởng, những chi tiết vô cùng nhỏ nhặt lại chứa đầy ý tứ, truyền đạt một
cách tinh tế, chính xác diễn biến tâm lý của nhân vật. Điều này thể hiện hết
sức linh diệu trong Bài ca về cuộc gặp gỡ cuối cùng
Vào chiếc găng tay trái.
Một chi tiết rất Akhmatova -
người đàn bà “xăm xăm băng lối” tới cuộc hẹn, hồi hộp, bối rối tới mức tay xỏ
nhầm găng! Còn gì thuyết phục hơn khi miêu tả tâm trạng bấn loạn vì tình như
thế!
Bằng những chi tiết cụ thể,
cực kỳ chuẩn xác, một điều gì đó còn lớn lao hơn một tâm trạng đã được khẳng
định và tượng trưng hoá, - đó là một tâm hồn chân thực, toàn vẹn. Tình yêu
trong thơ Akhmatova không phải chỉ là dục vọng đam mê, là sự gần gũi, mà nhất
thiết và trên hết phải là sự thăng hoa của tâm hồn, là sự vươn tới tận thiện,
tận mỹ, là mối liên hệ tinh thần giữa hai con người. Khi điều đó không xảy ra
nữa thì tình yêu chỉ còn là nỗi bất hạnh đáng nguyền rủa, nó tước mất những suy
nghĩ trong sạch, tách con người ra khỏi vũ trụ, nhấn chìm nó trong thế giới u
ám của địa ngục:
Và trái tim đó thôi đáp lại
Giọng nói em - vui sướng, ngậm ngùi.
Vậy là hết... Bài ca em vọng
Vào đêm hoang - nơi mãi vắng anh rồi.
Nếu tình yêu trong thơ Svetaeva luôn gắn với hình tượng giông bão, hoả
diệm sơn, sóng thần, biển động, thì tình yêu trong thơ Akhmatova:
Khi hệt như con rắn cuộn tròn
Ngay trong tim làm trò phù phép,
Lúc như chim bồ câu mải miết
Gù bên cửa sổ trắng ngày đêm.
Người đàn bà trong thơ
Svetaeva biểu lộ tình yêu đắm say mãnh liệt bao nhiêu, thì người đàn bà trong
thơ Akhmatova cùng lắm cũng chỉ chân thành thỏ thẻ:
Đừng vò nát thư em, anh
yêu dấu,
Đọc hết đi, anh sẽ hiểu
ngọn ngành.
Em đã chán mãi là người
xa lạ,
Là người dưng trên bước đường anh.
Tình
yêu nhẹ nhàng dung dị đó lại là một thứ tình yêu không gì chế ngự nổi: không
“nhiệm vụ”, không “hoàn cảnh”, một thứ tình yêu không chút vị kỷ, tính toán, so
đo, một tình yêu giàu có, thảo rộng, bởi nó là nhu cầu tự nhiên của tâm hồn,
một tâm hồn không thể yêu cách nào khác ngoài tự nguyện và dâng hiến:
Em thờ phụng anh vẫn chân
thành như thế
Đừng sợ em yêu trong cay đắng
khổ đau!
Vì tình cảm hai ta, em có thể
cầu nguyện Chúa trời và tất
cả các thần linh.
Vì anh yêu, em trao cả họ
hàng
Và đổi lại em không đòi gì cả
Đối với Akhmatova tình yêu là hiện tượng tự nhiên của tự do tinh thần.
Điều đó vang lên như một tín điều:
Mùa thứ năm trong năm,
Ngập lời anh tán tụng.
Hãy thở chút tự do cuối cùng
Bởi đó -- tình yêu ta thờ phụng.
Mỗi nhà thơ tình đều cố gắng đưa ra “tuyên ngôn”, “định nghĩa” của mình
về tình yêu. Đối với Akhmatova tình yêu - đó là Tự do cuối cùng, tức Tự do tối
cao. Khi yêu thực sự con người được ban cho thứ ân sủng đặc biệt đó.
Tình yêu trong thơ Akhmatova - tình yêu của những đòi hỏi tinh thần cao,
là lĩnh vực của tự do tối thượng và là niềm vui sướng, khả năng dâng hiến toàn
vẹn của trái tim - tình yêu ấy đồng thời là bi kịch. Bởi nó không được chia xẻ:
không phải ai cũng có khả năng bắt kịp tình yêu này, khi “rơi” vào nó, người
thì không tiếp nhận nổi - “Đến dịu dàng anh cũng không đòi hỏi”, người
thì, điều này còn cay đắng hơn, chỉ cần một chút, một vài mảnh vụn của nó - “Chén
tình không uống cạn / Chỉ nhấp môi gọi là...”.
Song tình yêu bi kịch trong thơ Akhmatova còn gần và cần đối với con
người hơn những thứ tình yêu “thành công”, viên mãn thường gặp trong thơ đương
thời. Là bởi bi kịch trong thơ Akhmatova tạo ra một nguồn tình cảm vô tận, giấu
trong nó khát vọng hướng tới toàn thiện, toàn mỹ. Chất bi kịch này làm tăng vẻ đẹp và sức mạnh tình cảm, khả năng
bất diệt của nó - đó là sự vận động.
Loại thơ tình yêu thành đạt hạn chế tình cảm, làm nó nghèo đi bởi sự tự thoả
mãn. Mà thật ra sự thành đạt nói chung không bao giờ có thể là đối tượng của
thơ - vì thành đạt luôn đồng nghĩa với bất động, đứng yên. Tình yêu trong thơ
Akhmatova không thành đạt, song cũng không phải không hạnh phúc. Chỉ cần một
khả năng biết hi sinh vì tình yêu, một tình yêu không cần đền đáp, không tính
toán, một tình yêu khó khăn và đau đớn - “đến tận cùng đau đớn, đến tình yêu”
(Xuân Quỳnh) - chỉ cần một khả năng đó của trái tim đủ để có một hạnh phúc thực
sự. Và người đọc biết ơn tình yêu đó, thứ tình yêu nuôi dưỡng tình cảm của họ,
không trói buộc họ bởi bất cứ công thức nào...
Anh cấm em không được hát, được cười,
Cả cầu nguyện - từ lâu rồi cũng thế!
Mọi điều khác có gì đâu đáng kể.
Thơ tình yêu là
một bộ phận “máu thịt” trong toàn bộ sáng tác của Akhmatova. Và giống như một
trong những bộ phận làm nên cơ thể sống, nó sẽ chết nếu bị tách lìa khỏi cơ thể
ấy. Cũng như vậy, tình yêu trong thi sỹ có tên Akhmatova sẽ không còn, nếu tách
nó khỏi tình yêu với nước Nga, thiên nhiên Nga, nhân dân Nga. Tình yêu này đã
giúp bà sống trọn một đời thơ dài. Nước Nga đối với Akhmatova, cũng như Tự do
đối với Petopi, vì sự sống còn của nó bà sẵn sàng hiến dâng tất cả, không chỉ
những người mình yêu mà còn cả tài thơ
của mình nữa:
Hãy mặc tôi với những năm cay đắng tật nguyền
Ngạt thở, sốt cao, thao thức triền miên,
Cứ lấy đi của tôi cả con, cả bạn,
Cả thi tài huyền diệu trời ban --
Tôi khẩn cầu trong Lễ Thánh linh thiêng
Sau chừng ấy ngày đêm khổ ải,
Để mây đen trên bầu trời Nga tăm tối
Trở thành mây trong rạng rỡ hào quang.
Cũng như nhiều nhà
văn, nhà thơ tài năng khác, Akhmatova sợ người đời sau này sẽ không hiểu cuộc
đời mình, không hiểu thơ mình, chính vì vậy sẽ quên lãng nó. Ngay từ năm 1913,
dự cảm về số phận vinh quang đầy cay đắng sẽ dành cho mình, bà đã viết những dòng thơ này để minh
chứng cho tấm lòng mình, để hậu thế phán
xét:
Và em đứng
đây - lạy Chúa lòng lành! -
Trên lớp phủ
băng mỏng manh, dễ vỡ,
Còn anh,
những bức thư của em xin hãy giữ,
Cho thế hệ mai sau
phán xét chúng mình.
Đúng như dự cảm của nhà thơ, ngày hôm nay trường học đã giảng dạy thơ của
bà cho học sinh. Thế hệ thế kỷ XXI, thế hệ của máy tính và quảng cáo, vẫn đọc,
hiểu và yêu thơ bà, biết ơn bà - người gìn giữ, truyền lại cho họ những điều
tốt đẹp nhất trong văn hoá Nga.
Tình yêu và lòng biết ơn đó còn được thể hiện ở những bài thơ dịch
Akhmatova của Tạ Phương trong cuốn sách này. Đây là cuốn sách đầu tiên tập hợp
riêng những bài thơ của nữ sỹ in ở Việt Nam. Mặc dù cuốn sách mới chỉ giới
thiệu một phần nhỏ trong toàn bộ di sản đồ sộ thơ của bà, song dịch giả cũng đã
phác hoạ được một chân dung Akhmatova mà qua đó có thể tưởng tượng một bức
tranh hoành tráng xứng với tầm vóc của bà.
Và chúng ta, những người đọc, xin cám ơn dịch giả về điều đó.
ĐÀO TUẤN ẢNH
Bài do dịch giả Tạ Phương gửi cho Vunhonb.
Cám ơn trang chủ Vũ Nho, người phụ nữ đẹp tuyệt vời cả về tâm bồn lẫn nhan sắc. Chính vì cuộc đời nhiều bất hạnh hơn hạnh phúc, nên chúng ta mới có NỮ HOÀNG THƠ
Trả lờiXóaCám ơn sự sẻ chia của bạn!
XóaSửa lại '' tâm hồn ''
Trả lờiXóaĐây là bài viết của tác giả Đào Tuấn Ảnh do dịch giả Tạ Phương gửi cho tôi. Tôi không thể tùy tiện sửa theo yêu cầu của bạn. Thông cảm nha!
XóaTrang chủ nhầm rồi. Sửa ở phần nhận xét vì người viết lỡ sai mà không biết cách sửa. Trang chủ sửa được, xin cám ơn nhiều
Trả lờiXóaChủ Blog chỉ có quyền XÓA com chứ không có quyền SỬA com của khách. Vì vậy bó tay chấm com!
XóaKính báo!
Chủ trang
Cảm ơn ban Vũ Nho, đọc hay quá. Mình lại nhớ hồi VNn đi Nga được nghe người dẫn chương trình là Vladiamia (Đã sang Vn học 2 năm và tên Việt là Vũ) nói về nhà thơ ANNA AKHMATOVA. Mình thấy nói là cứ phải đau khổ mới có thơ hay, nghe tội quá.....
Trả lờiXóaCám ơn Cương. Thường là như vậy thôi. Cũng có người cuộc sống không đau khổ, thơ vẫn hay. Nhưng tiếc thay đó gần như là ngoại lệ!
Xóa